Thursday, June 30, 2011

Nhớ Về Trường Sơn


Từ trước đến nay đã có nhiều sách, bài được viết dưới thể loại Hồi Ký về các trận đánh lẫy lừng của các Quân , Binh Chủng thuộc QLVNCH; các trận đánh và các địa danh đã dược ghi vào chiến sử của VNCH và các nước khác trên thế giới; những chiến trận này được thực hiện bời những đại đơn vị , ít nhất cũng là cấp Đại đội. Nhưng rất ít bài mô tả những cuộc hành quân cấp toán ( 4,6 người) của các Toán Trinh Sát Tiểu Khu, Trung Đoàn, Sư Đoàn BB, Sư Đoàn Nhẩy Dù, TQLC, các toán Delta của LLĐB.... và lại càng hiếm hoi hơn là các Toán Lôi Hổ, thuộc Sở Liên Lạc và Sở Công Tác trực thuộc Nha Kỹ Thuât/TTM. Các Toán này âm thầm hành quân len lỏi trong các Căn Cứ Địa của Cộng Sản bên kia biên giới của Việt Nam, thuộc vùng dất Lào và Cam Bốt, giũa rừng già heo hút của dãy Trường Sơn chập chùng. LẺ LOI và ÂM THẦM, đó là tính chất hành quân cũa các người lính Biệt Kích có tên gọi nghe hiền lành : NHA KỸ THUẬT. Ngoài ra còn các chàng Người Nhái Biệt Hải thuộc Sỏ Phòng Vệ Duyên Hải và các bậc đàn anh thuộc “Sở Bắc” (SB) đã từng nhảy xâm nhập ra đất Bắc vào những năm dầu của thập niên 60, điển hình như “ Người tù kiệt xuất : Đ/Úy Nguyễn hữu Luyện “

Hầu như ít người biết đến cái tên NHA KỸ THUẬT. Tên gọi này nghe rất hiền lành như một đơn vị lo về cơ khí, máy móc hoặc về ngành nghề có tính cách chuyên môn. Hoặc nếu có người biết đôi chút thì họ đều nghĩ rằng đơn vị Nha Kỹ Thuật thuộc Phòng 7 TTM. Tất cả những hiểu biết ít ỏi này cộng thêm với những giai thoại được thổi phồng tạo thành một huyền thoại cho các chàng BIệt Kích này.

Bài này được viết theo lời đề nghị của Ban Biên Tập báo LÝ TƯỞNG của Không Quân VNCH, tiếp theo một bài dược tôi kể lại về một lần tôi bị SA.7 bắn rớt ở mặt trận Quảng Đức vào cuối năm 1973, cũng đăng trên tập san này , số 3/2004. Phi vụ này tôi bay cùng với Pilot Bắc Đâu 65 trên phi cơ L.19 của PĐ118/SD6KQ

Những chi tiết liên quan đến các đơn vị thuộc Nha Kỹ Thuật trong bài này được tôi trình bày theo những hiểu biết sẵn có của cá nhân tôi cũng như những mô tả các lần nhảy toán là do chính bản thân tôi tham dự. Những thiếu sót ngoài tầm hiểu biết của tôi, xin các Niên Trưởng cũng như các chiến hữu cùng chung đơn vị bổ sung thêm để xóa tan những hiểu biết lệch lạc về đơn vị Nha Kỹ Thuật.


@ @ @
Sau 13 chuyến nhảy toán, tôi được Trung Tá CHT/CD2XK gọi lên và chuyển tôi qua đi bay với chức vụ là SQ Tiền Không Sát. Sở dĩ có vụ này là vì trong thời gian đi toán, tôi thường hàng đêm la cà ở Câu Lạc Bộ dể nhậu nhẹt với bạn bè và đùa với mấy em chiêu đãi cho vui. Trong số bạn bè này có vài người Mỹ, họ cũng là quân nhân của Liên Đoàn 5 LLĐB Hoa Kỳ mà ngành hoạt động của chúng tôi là một phần trong kế hoạch của Mỹ dưới tên là MACV-SOG (Military Assistant Command Vietnam of Studies & Observation Group ). Trong lúc giao tiếp hay vui chơi nhậu nhẹt, tôi cũng talk líp lơ với họ nên có một vài SQ biết được, cho nên khi đơn vị cần 1 SQ TKS, anh này đã đề nghị tôi. Thế là từ đó tôi chấm dứt “nghề” nhảy toán, chuyển qua “nghề” bay bổng.
Ngày bắt đầu nghề mới, tôi đi bay với 1 SQ /TKS đương nhiệm bằng chiếc U.17 của PĐ.110. Anh này hướng dẫn cho tôi cách nhìn trên địa hình và bản đồ, cách liên lạc vô tuyến với hệ thống vô tuyến trên phi cơ ( FM, UHF, VHF ), rôi nào là đồng hồ cao độ, la bàn điện, la bàn từ, nào là đồng hồ tốc độ, đồng hồ RPM, chân trời giả với viên bi ....ôi thôi tùm lum tà la. Và sau 1 chuyến thử gió, khi đáp xuống tôi cầm một bọc đầy ắp Làm sao mà chịu nổi khi ngồi trên phi cơ cứ hết xoay bên này rồi lại ngó bên kia đến chóng mặt rồi các bố pilot cứ chống cánh quay vòng vòng để tôi quan sát; tôi thấy nghề này coi bộ không khá với tôi rồi đó. Tối hôm đó tôi mệt nhoài vì nôn ọe tới mật xanh, mật vàng.

@ @ @

Thời gian “huấn luyện”, tôi phải theo các “thầy” đi bay với U.17 để tập liên lạc với toán dưới đất, tập chấm tọa độ khi toán cần xác định điểm dứng, rồi trong những chuyến thả và rước toán, tôi monitor trên vô tuyến để biết cách thức điều khiển và hướng dẫn phi cơ ( Trực thăng, gunship, Cobra, khu trục ) khi thả hoặc rước toán. Từ trên cao nhìn xuồng thấy cảnh thả hay rước toán với những hoạt động nhịp nhàng của phi cơ O.2, Cobra, trưc thăng H.34 khiến tôi liên tưởng tớithời gian trước đây, khi tôi đươc thả chắc cũng giống như thế này vì bài bản thì cũng như nhau mà thôi. Từ trên cao, tôi nhìn thấy Cobra bay lượn vòng quanh bãi ( LZ ) với cánh quạt một bên dược sơn trắng cho dễ quan sát, rồi sau đó chiếc H.34 chở toán tiến theo trục để vô bãi rồi đáp xuống. Tôi dặt ống nhòm nhìn thấy toán nhảy ra chạy vô bìa rừng v.v ... Lúc đó tôi có cảm giác thật an toàn khi ngồi trong phi cơ trong khi các bạn bè bắt đầu cho 7 ngày lặn lội trong rừng. Qua liên lạc giưa toán và phi cơ, tôi nghe giọng nói của toán trưởng báo cáo toán xuống đất an toàn bằng một giọng nói chỉ phát bằng hơi gió.

Sau vài ngày huấn luyện như thế, tôi dược chuyển qua bay với L.19 (O.1) cũng của PD110, có nghĩa là chỉ có tôi và Pilot và cũng có nghĩa là tôi phải làm việc một mình với nhiệm vụ là liên lạc với các toán hành quân ở những mục tiêu gần căn cứ xuất phát vì L.19 đâu có khả năng bay xa. Dạo này tôi đã quen quen nên không bị say sóng nữa, nhờ đó cảm thấy đỡ mệt vì “ rải truyền đơn “. Tuy thế, lúc nào đi bay tôi cũng phải thủ một túi giấy.cho chắc ăn.

Cũng nói sơ qua về binh chủng của tôi một tí !

Thiệt ra tôi cũng không hiểu danh tứ “Lôi Hổ” từ đâu mà có và có từ bao giờ, chỉ biết rằng khi tôi về đơn vị thì biết là mình đang ở Lôi Hổ và tôi cũng hãnh diện khi mọi người biết tôi là Lôi Hổ. Nghe tên thì có vẻ dữ dằn, ghê góm thật cộng thêm những huyền thoại : nào là trước khi đi nhảy được lãnh tiền tử trước, nào là lính này có nhiệm vụ nguy hiểm và gan góc là : “ chó chạy đường mòn”, có nghĩa là khi vô căn cứ địch, tụi tôi có nhiệm vụ chạy trên đường mòn để dụ địch xuất hiện rồi kêu máy bay tới dội bom, nào là lính loại này “ Sáng ăn phở ở Hà Nội, chiều uống cà phê ơ Saigon “ v..v.... Ôi thôi đủ thứ huyền thoại được tạo nên bởi những người xung quanh công với các bố lính Biệt kích “ nổ “ thêm cho ra vẻ ta đây, rồi các đơn vị bạn không biết nhiều về tụi tôi lại cho chúng tôi thuộc “ Phòng 7 “ của Bộ TTM, có vẻ như là “ phản gián “. hoặc là điệp viên 007 không bằng. Mà quả thật tụi tôi là “ gián diệp “ thật vì với VC, chúng gọi tụi tôi là “ điệp “, có nghĩa là gian diệp mỗi khi toán tụi tôi dược thả xuống. Tôi cũng có góp phần trong vụ “nổ” này: Hồi mới ra trường, trong một lần về phép Saigon sau 1 chuyến hành quân, tôi đi chơi bị 1 toán tuần cảnh hỗn hợp chận xét giấy tờ dọc đường, trong đớ có vài ba chàng SVSQ Thủ Đức. Tôi bèn không đưa Chứng chỉ tại ngũ hay Căn cước quân nhân gì cả, mà đưa cho các chàng này coi thẻ toàn tiếng Mỹ, trong dó có tên, cấp bậc bằng tiếng Anh và một dọc số Serial Number, cuối hàng số này là 3 chữ CIA, thế là các chàng nhìn tôi vơi vẻ khâm phục.Thật ra tấm thẻ này chỉ là thẻ cấp phát cho các Biệt kích quân để ra vào cổng doanh trại mà thôi, tôi lên văn phòng Đại Đợi Thám Sát của Mỹ lấy một tấm, bỏ vô máy chữ gõ như đã nói ở trên. và cũng chỉ có thế mà thôi chứ đâu có dán hình ảnh gì.
Gọi là binh chủng chứ thật ra đơn vị chúng tôi được coi như tương đương cấp Trung Doàn so với BB , có tên gọi nghe rất là hiền từ, trái ngược hẳn với nhiệm vụ mà chúng tôi phải đảm trách : “ Sỏ LIÊN LẠC/NHA KỸ THUẬT”, nghe có vẻ như là lính văn phòng, chỉ chạy lông nhông để liên lạc các đơn vị với nhau hay mang công văn, văn thư cho các nơi.
Xuất xứ của Sở tư hồi nào thì tôi không rõ vì tôi đáo nhậm dơn vị mới sau này, năm 1969. Trong khi theo tôi nghe nói thì Sỏ Liên Lạc được thành lập từ lâu lắm rồi và mãi gần đây, theo bài viết trong bản tin “ Gia Đình Nha Kỹ Thuật “ của Th/Tá` Emile, nguyên là Chánh văn phòng của Đại Tá Đoàn văn Nu, Giám Đốc NKT, tôi mới biết rõ thêm về xuất xứ của Sở Liên Lạc và Nha Kỹ Thuật.

@ @ @

Tiền thân của Sở Liên Lạc là Sở Khai Thác Địa Hình, trực thuộc Phủ Tổng Thống, do cố Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy, chuyên phụ trách về tình báo quốc nội cũng như quốc ngoại dưới sự chỉ đạo trưc tiếp của Cố Vấn Ngô đình Nhu hay Tổng Thống Ngô đình Diệm. Trông cơ cấu tổ chức của Sở, phòng E hay phòng 45 chuyên đặc trách các hoạt động thu thập tin tình báo tại miền Bắc Vĩ tuyến 17 với các hệ thống tình báo nằm vùng hay xâm nhập từ miền Nam hay từ Đệ tam quốc gia. Phòng E hay 45 sau còn dươc gọi là SB ( Sở Bắc )

Vào đầu năm 1963, Sở Khai Thác Địa Hình được biến cải thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt với hai đơn vị nòng cốt là Liên Doàn 77 và Liên Đoàn 31 cũng do Đại Tá Lê Quang Tung làm Tư Lệnh.. Sở Bắc vẫn còn tiếp tục hoạt động, nằm trong cơ cấu tổ chức của BTL/LLĐB và vẫn duy trì phối hợp với cơ quan Combined Studies của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ. Sau cuộc chính biến 1.11.1963, Đại Tá Lê Quang Tung bị sát hại, LLĐB đã được chỉ huy bởi một số Tướng lãnh và được dời về Nha Trang.. Kể từ lúc này, SB được tách rời khỏi Binh chủng LLĐB, lấy tên là Sở Khai Thác thuôc Bộ TTM. và vẫn duy trì các công tác đặc biệt. Vị Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của đon vị này là Đại Tá Trần văn Hổ. Cơ quan MAAG, Cơ quan Cố Vấn Quân Sự Hoa Ky,ụ được cải danh xưng là MACV và một bộ phận yểm trơ và cố vấn cho Sơ Khai Thác đươc gọi là MACV-SOG ( Studies and Observation Group ) hay Special Operations Group với nhiệm vụ thi hành kế hoạch OP34A ( Operation Plan) trên vùng đất Bắc Việt.

Sở Liên Lạc cũng được thành lập vào thời gian này và cũng trưc thuộc Bộ Tổng Tham Mưu (SLL/TTM). Sở này đảm trách các công tác xâm nhập ngoại biên trên đất Lào và Cam Bốt. Các toán thám sát được gọi là Lôi Hổ (Thundering Tiger) có nhiệm vụ thám sát ghi nhận dấu vết hoạt động của địch, phá hoại các mục tiêu trọng yếu của địch, chỉ điểm các mục tiêu cho Không quân oanh kích v.v,,,Ngoài ra trong các chuyến hành quân nhảy toán, nhiệm vụ bắt sống tù binh CS là công tác hàng đầu cần phải thực hiện bất cứ lúc nào có thể được vì tù binh là nguồn tin tức quý giá với tính chất xác thực va sớm nhất trong lãnh vưc khai thác tin tức tình báo.ụ Vị Chỉ Huy Trưởng đấu tiên của SLL là Đại Tá Hồ Tiêu gốc Sư Đoàn Dù. Liên tiếp những vị Chỉ Huy sau đó cũng đều từ SDND chuyển qua.
Bộ Chỉ Huy SLL đặt tại Saigon, ngay cạnh sân banh Quân Đội ở Tan Sơn Nhứt và ba Chiến Đoàn đồn trú tại các khu vực khác nhau thích hợp với khu vực mục tiêu mà mỗi Chiến Đoàn dảm trách;

1. Chiến Đoàn 1/SLL (CCN) đồn trú tại Đà Nẵng.
2. Chiến Đoàn 2/SLL (CCC) “ Kontum ( Còn được gọi là B.15)
3. Chiến Đoàn 3/SLL (CCS) “ Ban Mê Thuột ( Duoc goi là B50)

Song song với các Chiến Đoàn này, MACV-SOG cũng có cơ sở hành quân cấp toán riêng rẽ, cùng đồn trú chung một doanh trại với Chiến Đoàn. mà chúng tôi gọi dơn vị Mỹ lá “Phía Đối Nhiệm”. Tên gọi của Mỹ là CCN ( Command and Control North), CCC (Command and Control Central), CCS ( Command and Control South). Có nghĩa là hai đơn vị Mỹ-Việt cùng chia nhau khu vực trách nhiệm dể thả toán vô những mục tiêu được cả hai BCH phối hợp chọn lựa.
Sơ đồ tổ chức là như thế, còn thành phần tham dự thì hầu hết chỉ là SQ, HSQ Cán Bộ, tức là lính của QLVNCH đàng hoàng, có số quân, có Chứng Chỉ tại ngũ. Riêng hàng ngũ binh lính thì được tuyển chọn tại địa phương nơi trú đóng và được gọi là Biệt Kích Quân (SCU), tức là lính do Mỹ trả lương, không thuộc quân số của QLVNCH và được gọi theo danh từ thông dụng là Biệt Kích Mỹ. Ngoài một số lớn là người dân địa phương đầu quân vào Biệt Kích, còn có một số khác là lính đào ngũ từ các dơn vị của QLVNCH tình nguyện đầu quân vào đơn vị chúng tôi. Thì cũng “ lọt sàng xuống nia “ thôi chứ đâu co mất mát đi đâu mà sợ.
Mỗi Chiến Đoàn gồm 1 Đại Đội Thám Sát với từ 10 đến 12 toán, 1 Đại Đội An Ninh, 3 Đại Đội Trừ Bị. Mỗi toán Thám Sát có từ 10 đến 12 người được chỉ huy bởi 1 SQ Toán Trưởng, 1 HSQ toán phó và 10 Biệt Kích Quân. Một Ch/Úy ra trường với khả năng là Trung đội Trưởng nhưng về binh chủng này chỉ huy chỉ có một Tiểu đội mà thôi nhưng là 1 tiểu đội thiện chiến với khả năng trihh sát, kinh nghiệm hành quân trong rừng rất dày dạn. Từy quân số là như thế nhưng mỗi lần hành quân chỉ tham dự có từ 6 đến 8 người mà thôi. Lý do : thay phiên nhau nghỉ. Vã lại với hình thưc hành quân cấp toán trong rừng Trường Sơn thì đi càng ít càng tốt và càng thuận tiện cho phương tiện trưc thăng khi thả và rước. Đã có lần tôi dẫn toán đi nhảy chỉ có 4 người, nghĩa là tôi, toán phó và 2 người lính BKQ nữa mà thôi. Lần đó chúng tôi không mang theo máy truyền tin PRC.25 như mọi lần mà mang một loại máy liên lạc cũng băng tần FM nhưng chỉ có kích thước quãng 8cm x 12cm, bỏ rất gọn trong túi áo trận. Nghe thì có vẻ “hiu hắt” thật nhưng chúng tôi di chuyển rất thuận lơi, êm thắm, nhanh chóng, chui rúc cũng dễ dàng, Nhiệm vụ của toán Lôi Hổ là thám sát theo dõi, tìm kiếm dấu vết hoạt động của VC chứ đâu phải để nghênh chiến nên đi càng ít càng khỏe và lỡ có tao ngộ chiến hay bị địch theo dõi ngay từ đầu thì nổ súng xong là dzọt ngay rồi sau đó giao lại cho Không Quân làm việc với VC ở dưới đất. Nhiệm vụ của chúng tôi cũng tương tự như các toán Delta của Binh chủng LLĐB, chỉ khác phạm vi hoạt động là các toán Delta chỉ nhảy trong nội địa, còn chúng tôi nhảy bên kia biên giói Việt-Miên-Lào.

Chiến Đoan 1 XK , hay CCN, đảm trách khu vực hoạt động vùng Thượng và Trung Lào, Khu vực này rất hiểm trở vì toàn núi rừng dày đặc, lội cũng mệt mà vấn đề tìm bãi đáp (LZ) cũng khó

Chiến Đoàn 2 XK hay CCC đảm trách khu vực Hạ Lào bao gồm vùng Tam Biên, và Đông Bắc Cam Bốt với Căn Cứ địa 701 và 702. Doanh trại đóng tại thành phố Kontum, Can cứ Xuất phát thì tùy từng mục tiêu, thường là Dakto, , Đức Cơ, Plei Djreng hay Lệ Minh. Đây là các trại biên phòng của LLĐB mà chúng tôi sử dụng làm Căn Cứ Xuất Phát để xâm nhâp qua bên kia biên giới vì các trại LLĐB đều có sân bay để các loại phi cơ vận tải có thể đáp tiếp tế, do đó trưc thăng và phi cơ quan sát của chúng tôi dư khả năng sử dụng. Tại đây cũng có nhiên liệu và đạn dược để refill sau mỗi chuyến vượt biên giới để thả hay rước toán.
Tôi không biết tên gọi B.15 dược xuất phát từ đâu và từ bao giờ, nhưng ở Kontum khi được nói đến tên gọi này là mọi người, quân cũng như dân, đều biết đó là tên dơn vị Lôi Hổ đồn trú tại Kontum, bên kia sông Dakbla, từ hướng Pleiku đi lên trước khi vào thành phố Kontum. Tôi thuộc CĐ2XK/SLL kể từ ngày ra trường cho đến khi bị thương vì SA.7 mới thuyên chuyển về CĐ1XK/SLL, lúc này đang đồn trú tại Biên Hòa, quãng 4/74 cho dên ngày sập tiệm. Tính ra tôi đã phục vụ ở CĐ2XK/SLL được hơn 5 năm. dọ đó tôi am tường hoạt động của đơn vị này nhiều hơn

Chiến Đoàn 3 XK : hay CCS, đảm trách vùng Bắc Cam Bốt trở xuống. Căn cứ Xuất Phát là trại Tiêu A Ta và Quản Lợi.

Vào quãng năm 1964-65, Sở Khai Thác được cải danh là Sở Kỹ Thuật/TTM và sau đó không bao lâu Sở này được nâng lên là Nha Kỹ Thuật/TTM, được chỉ huy bởi một Giám Đốc, có cấp số tương đương là Tư Lệnh Sư Đoàn. Danh xưng này chỉ là vỏ bọc của tên gọi được Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu dặt là “ Bộ Tư Lệnh Chiến tranh Ngoại Lệ “. ( Unconventional Warfare Headquarter ). Nha Kỹ Thuật lúc đó gồm các Sở như :


- Sở Liên Lạc
- Đoàn 11 và Đoàn 68
- Sở Không Yểm ( liên quan đến Không Quân )
- Sở Phòng Vệ Duyên Hải ( liên quan đến HQ và Người Nhái)
- Sở Tâm Lý Chiến ( Đảm trách các đài Phát thanh Mẹ Viet Nam va
Gươm Thiêng Ái Quốc.và các nghiệp vụ về Tâm Lý Chiên )
- Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng tại Long Thành.
- Sở Công Tác ( Gồm Doàn 11 và Doàn 68 dã có từ trước cộng thêm Doàn 71, 72, 75 mới thành lập vào quãng năm 1971 sau khi binh chủng LLĐB giải tán

@ @ @

Sau vài tuần huấn luyện, tôi được thả “solo” trong một chuyến thả toán. Tôi phải đảm trách toàn bộ công việc từ A đến Z. Trong “phi vụ” đầu tiên đương nhiên tôi cũng hơi bối rối nhưng mọi chuyện trôi qua suông sẻ. Từ đớ coi như tôi là một SQ Tiền không Sát chính thức của đơn vị.
Trong giai đoạn này, vào thời điểm 1970 – 1972, đơn vị chúng tôi còn hoạt động chung với Mỹ nên toàn bộ đều được MACV-SOG yểm trợ; từ vũ khí, quân trang, quân dụng đến tiền công tác phí, kể cả toàn bộ phương tiện yểm trơ cho các chuyến hành quân. Ngoài số lương chúng tôi lãnh theo tiêu chuẩn của QLVNCH thuộc binh chủng Dù( có thêm tiền phụ cấp Bằng Nhảy Dù), mỗi tháng chúng tôi còn lãnh thêm một số tiền gọi là “ công tác phí’ mà tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu nhưng vào thời đó, số tiền lương lãnh hàng tháng cao hơn các bạn cùng cấp bậc ở BB rất nhiều, gần gấp đôi. Cồn các BKQ thì lãnh lương trực tiếp của Mỹ.
Vì chúng tôi phải nhảy vào nhũng vùng hoạt động cùa địch ở bên kia biên giới nên phương tiện vận chuyển và yểm trợ phải là Không Quân.: Phi Đoàn 219 Trực thăng, Phi Đoàn Quan sát 110 ( hái PĐ này đồn trú ở Đà Nẵng), Phi Doàn Quan Sát 114 ở Nha Trang.Cứ sau hai tuần biệt phái thì thay đổi biệt đội một lần. Các pilot của Biệt đội cũng được hưởng tiền công tác phí, cứ mỗi lần vượt biên giới là mỗi người trong phi hành doàn lãnh 3000 đồng; riểng trực thăng nếu trong một lần vượt biên giới mà làm hai nhiệm vụ, nghĩa là hai lần đáp là lãnh gấp đôi. Do đo các nhân viên phi hành thuộc PĐ219 sống rất đế vương Trong các canh sập xám hàng đêm, ăn thua được chung theo cách đó cọc tiền cho nhanh chứ hơi đâu mà ngồi đếm từng tờ cho mất thì giờ. Phương châm “ Thì giờ là cờ bạc” được triệt để áp dụng.
Các phi vụ Khu Trục thì tùy theo từng nhu cầu và tùy theo khu vực hành quân, các Trung tâm Khôâng Trợ sẽ điều động đưa dến cho chúng tô. Ứng trưc thường trực nhất thì có PD530 thuộc SĐ6KQ. Trong trường hợp cấp bách, đôi khi chúng tôi sử dụng các phi vụ của Mỹ xuất phát từ Đệ Thất Hạm Đội đang ứng trực trên không phận hoặc điều động khu trục phản lực từ Thái Lan. Các phi vụ này đều thông qua yêu cầu của FAC Mỹ mà chúng tôi bay cùng,

Ngoài phi cơ quan sát của PD110., đơn vỉ tôi còn đươc tăng phái mỗi ngày hai phi cõ quan sát của Mỹ là Phi cơ quan sát O2 và OV10. Hai Phi đoàn này đồn trú trong phi trường Pleiku và chỉ cất cánh lên Kontum để bốc Tiền không Sát` khi được gọi. Phi cọ OV.10 là loại phi cơ quan sát tối tân và lợi hại hơn O.2 vì hoạt động bởi 2 động cơ bán phản lực , được trang bị Mini gun và phóng lựu cùng với 2 dàn phóng rocket. Vì vùng Hạ Lào nhiều rừng núi nên loại phi cơ này hoạt động rất huũ hiệu, nhất là trong trường hợp toán bị đụng, phi cọ OV10 có thể bắn yểm trợ trong những giây phút đấu tiên để uy hiếp tinh thần địch trong khi chờ Khu trục đến yểm trợ. Năm 1971, trong chiến dịch Lam Sơn 719 ở vung Hạ Lào, các Quan Sát Viên của PD110 được tăng phái cho Mỹ để bay với pilot Mỹ trên phi cơ OV10, các anh dã kể lại rằng nó nhào lộn khiến chịu không nổi, phải “rải truyền đơn”

Khu vực Hạ Lào này được giao phó cho các toán Mỹ phụ trách, thỉnh thoảng mới có toán VN hành quân. Quân nhân Mỹ vốn to con nên mỗi lần đi nhảy, họ trang bị hỏa lực vũ khí rất mạnh. Cây Đại liên M.60 mà họ cầm giống như cầm cây tăm. Ngoài ra có toán còn chơi súng cối 60ly không có bàn tiếp hậu nên mỗi lần đụng dộ thì VC chỉ có từ chết tới bị thương. Thường thường các toán Mỹ được thả hay rước bằng phi cơ UH của Mỹ, do pilot Mỹ lái, các pilot này không chơi bạo như pilot 219, hơn nữa loai UH là loại tối tân hơn nên bay cũng phải theo bài bản hơn, do đó các toán Mỹ vẫn khoái được rước hay thả bởi PĐ219. Có một lần khi tôi còn đi nhảy toán, chiếc H34 xuống thả toán thì bị chém cây nên nằm ỳ luôn, tụi tôi nhảy ra ngoài nàm xung quanh bãi để giữ an ninh trong khi một chiếc H34 khác nhào xuông , gác một bánh xe lên rotor của chiếc nằm dưới đất để phi hành đoàn leo lên.

Phi cơ H.34 , có tên gọi là Sikorky, là loại trực thăng bay bẳng động cơ nổ nên nhiều khả năng “chịu đạn” hơn là UH., do đó rất thích hợp trong nhiệm vụ thả , rước các toán. Loại phi cơ này chắc hẳn đươc sử dụng từ Đệ Nhị Thế chiến nên trông có vẻ già cỗi, nặng nề, chậm chạp nhưng lại rất hữu dung cho chúng tôi. Nhìn vào cockpit và nơi chở quân thấy sao bầy hầy, toàn dầu nhớt lem luốc. lọc xà lọc xọc; khi bay thì rung chuyển ầm ĩ. Có khi đang bay, chúng tôi bị dầu nhớt không biết từ dâu nhễu xuống đầu hay quần áo. Vì là loại phi cơ cổ lổ nên tôi thấy pilot vật lộn với nó hơi mệt hơn loại UH sau này. Có lần tại Căn Cứ Xuất Phát, một anh bạn pilot kêu tôi lên ngồi ghế Co-Pil rồi quay máy cất cánh; khi đủ cao độ, anh bạn kêu tôi cầm stick bay thử nhưng chỉ được vài phút là tôi trả lại cho hắn vì cần lái quá nhạy nên mới lần đầu tôi giữ chưa quen nên nhích cần lái có một chút mà phi cơ lắc lư như đưa võng

@ @ @


Đơn vị B.15 của chúng tôi có hai sân bay cho Trực thăng. Một nằm ngoài doanh trại ở hướng Nam và một nằm trong doanh trại. Các H.34 của Biệt Đội 219 thường đậu trong sân này cho an toàn cả ngày lẫn đêm;; còn phi cơ quan sát của Biệt Đội 110 thì đậu ngoài phi trường Kontum. Nhân viên phi hành và nhân viên kỹ thuật của 2 Biệt Đội thì sống trong doanh trại chung với chúng tôi nên các sinh hoạt như ăn nhậu, bài bạc... đều sinh hoạt chung với nhau nên tình cảm gắn bó như cùng một đơn vị mặc dù khác quân chủng. Mỗi khi trở lại Kontum sau hai tuần biệt phái ở các Chiến Doàn khác mà nghe tin có thằng mất tích hay tử trận các bạn KQ cũng buồn như chính nỗi buồn của chúng tôi; hoặc có những lần nghe tin một pilot quen biết của PĐ219 hay PD110 bị bắn rớt trong một chuyến hành quân nào đó hay bị tai nạn đụng nhau bỏ mạng, chúng tôi cũng đau lòng, tiếc rẻ. Có khi ngồi câm lặng bên ly rượu, để mặc cho nước mắt tuôn rơi với những hồi tưởng thời gian sống bên nhau trước đây. Rồi cứ thế, ly này tiếp theo ly trước cho đến khi say mèm.

Hàng ngày, nếu có toán chuẩn bị xâm nhập, các pilot trực thăng VN cũng như CHT Căn Cứ Xuất Phát, SQ/TKS cùng với Ban 2, 3 và toán trưởng, toán phó cùng tham dự tái thuyếtù trinh để có cùng một khái niệm về cuộc đổ quân sắp` thực hiện ngõ hầu phối hợp cho được nhịp nhàng. Sau đó 3 trực thăng H.34 sẽ chở toán Hành quân cùng với các thành viên của CCXP và toán trừ bị bay lên Căn Cứ Xuất Phát và năm chờ.
Trong khi đớ tôi liên lạc với Phi Đoàn Quan Sát Mỹ ở Pleiku qua tần số vô tuyến dể request phi vụ và hẹn giờ để bốc tôi tại Kontum.. Khi phi cơ O.2 gần đáp, quãng 10, 15 phút trươc, pilot O.2 báo cho tôi biết, thế là tôi xách “đồ nghề” lên xe ra phi trường. Tuy là Bộ Binh, nhưng với nhiệm vụ “ bay bổng”, tôi cũng được trang bị như một quan sát viên Không quân chính hiệu. Cũng áo lưới mưu sinh, nón bay, cũng mang dù để nhảy ra khi phi cơ gặp nạn. Về mục này thì Không Quân Mỹ rất cẩn thận hơn hẳn pilot VN. Trước khi lên phi cơ phải mặc dù đàng hoàng.; dù này đuoc cất giữ trong phòng điều hòa không khí hẳn hoi và được kiểm soát định kỳ đều dặn. Còn mấy bố pilot VN thì cũng xách dù ra phi cơ nhưng là để kê lưng chớ không bao giờ mặc vào theo đúng qui dinh. Có những lần bay về trễ nên phải đáp ở phi trường Pleiku vì trời tối, phi trường Kontum không có đèn đáp trên phi đạo; tôi vào barrack của pilot 02 ngủ tạm qua đêm; sáng hôm sau lên phi cơ về lại Kontum. Khi bắt đầu ra di bay, . công việc của pilot Mỹ trước hết là vô phòng chứa dù để lấy dù cho mình, tôi cũng phải đi theo để lấy cho tôi. Ra đến bãi đậu phi cơ, họ lấy check list ra và làm thủ tục tiền phi rất là cẩn thận, họ bắt đầu check từ mục đầu tiên đến mục cuối cùng. Sau khi ngồi vào ghế lái cũng thế, họ cũng làm theo check list để kiểm soát các phi cụ trước khi quay máy. Bao nhiêu là nút, đèn đều được vặn thử, bấm tới bấm lui rồi mới ra hiệu cho kỹ thuật chuẩn bị cắm bình vào quay máy. Sau đó lại cũng theo check list để thử đồng hồ RPM, xăng, nhiệt độ nhớt máy, hạ flap lên xuống, thử tín hiệu đóng mở gear, ôi thôi đủ thứ trước khi taxi ra phi đạo. Mà đã ngồi lên phi cơ là phải có helmet đàng hoàng chứ không được sử dụng headset và phải mặc dù đầy đủ., pilot có quyền từ chối không bay với bạn nếu bạn không tuân hành luật lệ an phi qui định.

Trong khi đó, nếu đi bay với pilot quan sát VN thì khi ra ụ, khỏi cần check list gì cả, ông quan pilot VN kéo 2 cục gỗ chận bánh, đi một vòng vưa rờ rờ vừa ngó các bộ phận, gỡ các bao chụp che ống gió tốc độ v,v là xong. Hay là tại vì chiếc O.1 hay U.17 quá đơn giản nên không có gì nhiều để phải coi theo check list cho khỏi quên hay sơ sót ?

Trưc thăng H.34 cũng thế. Các ông quan tàu bay leo lên ghế ngồi xong là đưa tay vặn mở tùm lum nút một cách máy móc rồi quay máy. Nhìn giàn phi cụ ở các board trên đầu, trước mặt , ôi thôi sao mà đủ thứ nút, đủ thứ màu. Tôi nhìn mà thầm nghĩ làm sao mà nhớ cho hết công dụng hay chức năng của chúng Ấy thế mà bay cứ phom phom mà lại còn bay đẹp nữa chứ !!

Khi đã sống ở Mỹ, tôi mới thấy người Mỹ rất tôn trọng quy tắc, nhất là những nguyên tắc vế an toàn trong mọi lãnh vực., lý do là để con ngườụi làm theo những qui định đó để khỏi bị tai nạn lao động hay nghề nghiệp có thể gây thương tật hay chêt người. Từ đó phải công nhận là phe ta có máu ẩu và chơi bạo. Mà cũng nhờ chơi bạo nên mới làm nên những kỳ tích cũng như những giai thoại nổi tiếng khiến Mỹ cũng phải kiêng nể

@ @ @

Phi cơ O2 đáp xuống phi trường Kontum, thường dậu tại Parking của Air Viet Nam, tắt máy chờ tôi ra để thuyết trình sơ khởi về khu vực hoạt động, nhiệm vụ, những yêu cầu về yểm trợ v.vv. Xong la leo lên phi cơ quay máy cất cánh, trực chỉ mục tiêu.
Từ phi cơ L.19, U.17, bây giờ ngồi trễn phi cơ O.2 tôi thấy có nhiều sự khác biệt ; toiá tân hơn, bay nhanh họn, nhiều phi cụ hiễn đại hơn, an toàn hơn và phi cơ cũng nặng nề hơn. Vị trí ghế ngồi của Quan sát viên ngang với ghế pilot nên quan sát mục tiêu và những hoạt động xung quanh và phía trước dễ dàng hơn là L.19 cũng như quan sát được những thao tác khi cất cánh và đáp của pilot để mà học hỏi. Có lần tôi bay L19 với Bắc Đẩu 65 ( Pilot PD118, một nhân vật trong bài XÁ GÌ SA.7 ), khi cất cánh tại phi trường Kontum,. tôi ngồi ghế sau của Quan sát viên, vậy mà BĐ65 bảo tôi tống ga tập cất cánh một mìnhn hắn sẽ kềm cho tôi. Nhìn tới phía trước tôi chỉ thấy cái lưng cuả pilot mà thôi thì làm sao mà giử phi cơ chạy thẳng theo phi đạo được nên tôi la lên :”Thôi đi cha ! Làm như tôi là IP không bằng mà ông kêu tôi cất cánh khi ngồi ghế sau như vầy !”. Với phi cơ O2, cũng có vài lần pilot Mỹ để tôi cất cánh và đáp tại phi trường Pleiku. Nhờ thường xuyên quan sát thao tác khi cất và hạ cánh của pilot và phi cơ O2 là loại phi cơ có bánh mũi nẽn cất cánh dễ dàng hơn và khi đáp cũng không đến độ ““Cóc nhảy”

Với 2 động cơ cánh quạt, một phía trước mũi và một phía sau đuôi, phi cơ quan sát O.2 có tốc độ bình phi nhanh hơn, hính như 120 hay 140 miles/giờ ( tôi không nhớ rõ), nhưng tôi cảm thấy có vẻ nặng nề mỗi khi cất cánh. Pilot loại phi cơ này thường bay chung với tôi hàng ngày, qua nói chuyện tôi được biết họ đã được chuyển từ các loại phi cơ fix-wing khác sang bay phi cơ O.2 như : B.52, C.130, F.102 ... có cấp bâc từ Thiếu Tá đến Trung Úy. Ngoài khả năng điều khiển phi cơ, họ còn kiêm luôn nhiệm vụ của một quan sát viên để chấm tọa độ định điểm đúng khi toán yêu cầu, hướng dẫn khu trục oanh kích v.v...Do đó trong suốt thời gian làm việc với loại phi cơ này, tôi học hỏi được rất nhiều. Các pilot Mỹ mà tôi bay cùng đã tận tình chỉ dẫn và giải thích cho tôi thế nào là lực G, thế nào là vertigo, các hoạt động của các phi cụ trên phi cơ như đồng hồ TACAN, hệ thống định vị trí hiện tại của phi cơ dựa theo tín hiệu tứ một dài phát, kỹ thuật đáp theo hướng dẫn của đài kiểm soát qua những phi cụ của phi cơ...Kỹ thuật này được sử dụng khi trời mù , tầm nhìn bị hạn chế hoặc đáp đêm không đèn. Thỉnh thoảng trong những lần về đáp ở phi trường Pleiku họ vẫn thục tập ôn luyện mặc dù đang là ban ngày. Do đó họ nhờ tôi quan sát phi cơ xung quanh trong khi họ cứ chăm chú vô phi cụ để điều khiển phi cơ hạ cánh, từ lúc còn cách xa phi trường quãng 10 mile cho đến khi approach rồi từ từ giảm cao độ, giữ đưng hướng heading với phi đạo cho đến cuối cùng là touch down,

Trong khi chúng tôi đến trên vùng mục tiêu, tôi hướng dẫn cho pilot thấy được bãi đáp dự đinh sẽ thả toán và đồng thời quan sát toàn vùng để tìm xem có gì khả nghi hay không cũng như check thời tiết trên vùng.; nếu thời tiêt tốt, tôi sẽ gọi về CCXP để cho toán chuẩn bị lên đường trong khi pilot gọi về Phi đoàn Cobra để request phi vụ, cho điểm và giờ hẹn đểả họ đến gặp chúng tôi. Trong thời gian chờ đợi các phương tiện trên đường đến với chúng tôi, chiếc O.2 bay ra khỏi vùng để không tạo sự nghi ngờ cho địch ở dưới đất.

Tôi xin nói qua về giai đoạn chuẩn bị hành quân của toán :
Sau khi toán được Ban 2, ban 3 thuyết trình về mục tiêu với nhiệm vụ, tình hình địch trong vùng, phương tiện yểm trợ v.vv. Toán trưởng phác họa sơ qua về ý định hành quân, lộ trình di chuyển của toán và đi không thám. Toán trưởng sẽ đi với TKS bằng phi cơ U.17 lên vùng mục tiêu để quan sát khu vực sẽ hoạt động, tìm LZ chính, LZ phụ, đồng thời nếu có thể được thì chụp hình bãi đáp. Sau đó là chuẩn bị lãnh thực phẩm khô, vũ khí thích hợp với nhiệm vụ, quân trang, quân dụng cần thiết ; nói chung là tất cả những gì toán cần cho cuộc hành quân ( thí dụ nếu toán trưởng có ý định trang bị vũ khí VC thì toán sẽ lãnh súng AK, dây đạn hoặc súng nhỏ có gắn hãm thanh dùng để bắt sống v.v....) Trong thời gian tôi còn nhảy toán, tôi vẫn thích sử dụng AK, tuy hơi nặng hơn CAR.15 nhưng được cái là nếu có mưa gió hay súng bị ướt thì khi bắn vẫn không bị trở ngại tác xạ, kế đó là tiếng AK nổ nghe ròn rã và chát chúa hơn. Tôi vẫn thường dùng AK báng xếp, hình như là AK.49 thì phải, Cái tiện kế đó là khi mở khóa an toàn để tác xạ thì với AK chỉ cần kéo xuống một nấc là nổ liên thanh, còn CAR.15 thì phải kéo 2 nấc.

Sau vài ba ngày chuẩn bị , đến ngày N, Toán Trưởng và Toán phó sẽ tái thuyết trình với sự tham dự của CHT, Ban 2, ban 3, TKS và các Trưởng phi cơ H.34. Toán trưởng sẽ thuyết trình về ý định di chuyển , hành động trong thời gian hành quân và có những yêu cầu về yểm trợ, cách thưc thả như thế nào .. Trong buổi tái thuyết trình này, Toán trưởng cũng trình bày hình ảnh bãi đáp mà mình đã đi không thám chụp đươc để chiếc trưc thăng thả toán có khái niệm về hình ảnh LZ sẽ đáp xuống.


@ @ @

Tất cả mọi phương tiện trên đường đến điểm hẹn và qua truyền tin, họ báo cho chúng tôi biết còn quãng bao lâu nữa thì đền. Sau khi đã nhận diện đươc nhau và liên lạc vô tuyến với nhau tốt, phi cơ O.2 dẫn vào khu vưc mục tiêu và bắt đầu làm việc, Tất cả các loại phi cơ tham dự đều monitor trên cùng một tần số UHF để theo dõi
Trước hết, chúng tôi liên lạc với Cobra, báo cho họ biết là sẽ bingo chỉ cho họ thấy LZ sẽ thả toán xuống Sau khi họ nhìn thấy phi cơ O.2, chúng tôi nhào xuống thấp, bay ngang LZ va lắc cánh để xác định đúng vị trí; nếu họ đã nhận ra được bãi đáp là nhào xuống bay vòng vòng quanh LZ để quan sát. Trong lúc này , 3 chiếc H.34 vẫn còn ở trên cao.
Lấy LZ làm tâm điểm, hai chiếc Cobra bay vòng vòng tư ngoài vào trong để quan sát xem tình hình hoạt động của địch ở dưới đất. Sau khi ghi nhận là an toàn, họ báo cho H.34 hạ cao dộ đê đáp. Chiếc H.34 số 1 có chở toán cắt ga, lượn vài vong xoắn ốc trong thế rơi tự do, chỉ vài giây sau là đã xuống thấp , lấy lại vòng quay để vào trục vô bãi đáp để thả toán. Sau khi chạm đất, toán nhảy ra và chạy vào bìa rừng, thế là chiếc H.34 cất cánh bay lên cao cùng với hợp đoán, làm orbit để chờ toán di chuyển. Sau khi toán báo cáo là an toàn, tất cả mới rời vùng chỉ còn lại chiếc O.2 là còn trên vùng đề ứng trưc cho toán tiếp tục di chuyển. Sau quãng nửa giờ, toán báo cáo an toàn trên đường di chuyển, chúng tôi mới rời vùng. Coi như đã xong nhiệm vụ thả toán. xâm nhập.

Phần nhiều các mục tiêu là ơ phía Bắc Cam Bốt, cách xa biên giới hàng trăm dặm và chúng tôi không có đặt đài tiếp vận cho vùng này nên ngày 2 lần phải có phi cơ lên vùng để nhận báo cáo của toán. Thường thường phi cơ U.17 dảm trách công việc này.;nếu ngày nào có toán đi không thám chuẩn bị nhảy thì vưa không thám vừa liên lạc luôn.. Cách xa mục tiêu hàng chục dặm đã có thệ liên lạc dược vói nhau nên sau khi nhận được báo cáo của toán , phi cơ U.17 bay thẳng luôn chứ không bay vòng vong trên mục tiêu để có thể khiến cho địch nghi ngờ. Với giọng thì thào qua vô tuyến, người nhận phải chú ý lắng nghe lắm mới cò thể ghi được nội dung công diên để chuyển về nhà. Neứ mội chuyện vô sự thì coi như xong nhiệm vụ liên lạc, còn nếu toán có biến cố gì xảy ra thì tùy theo yêu cầù của toán để giúp đỡ ngay tức khắc như : định tọa độ đang đứng, tìm bãi đáp rồi cho hướng di chuyển đến, quan sát phía trước trên đường tiến quân của toán... Riêng trường hợp toán bị đụng thì tùy theo tình trạng hiện tại của toán để yểm trơ nhưng điều đầu tiên là báo về căn cứ để BCH định liệu. Trường hợp nguy cấp hơn như bị thương, thất lạc... là TKS phải request phi cơ O.2 lên tiếp ứng ngay. Ngay khi cất cánh, chúng tôi request phương tiện yểm trợ để có thể cùng có mặt trên mục tiêu đe kịp thờiă yểm trợ cho toán . Thồng thường là phải mất khoảng một giờ, trong thời gian này phi cơ U.17 vẫn hiện diện trên mục tiêu để giữ liên lạc với toán cho đến khi TKS bắt liên lạc được với toán thì mới rời vùng.


@ @ @

Căn cứ Xuất Phát của đơn vị tôi dặt tại trại LLDB Plei Djereng ( sau được đổi tên là Lệ Minh ), nằm phía Tây Pleiku gần biên giới Việt-Miên. Đây là một trong những trại biên phòng thuộc Toán A trong hệ thống tổ chức của Binh chủng LLĐB nằm dọc theo biên giới Việt-Miên-Lào. Lực lượng đồn trú quãng một Tiểu Đoàn Dân Sự Chiến Đấu( CIDG) được chỉ huy bởi SQ, HSQ Cán Bộ LLDB Việt Nam, phối hợp với SQ,HSQ Cán Bộ LLĐB Hoa Kỳ. Đơn vị chúng tôi được sắp xếp cho một góc trại với phòng ốc để làm BCH nhẹ và nghỉ ngơi
Mỗi trại đều có một phi trường dùng cho các loại phi cơ vận tải đáp phi đạo ngắn như C.123, C.130 hay Caribou có thể đáp để tiếp tế hay chuyển quân. như quý vị đều biết, trước đây những gì có dính dáng dến Mỹ là rất đầy đủ, dồi dào về quân trang, quân đung, thưc phẩm, xăng dầu, đạn dược v.v... Vì thế tuy là một trại nằm sát biên giới nhưng không thiếu thứ gì cả, cho nên đơn vị chúng tôi đặt Căn Cứ Xuất Phát tại đây để tiện việc thả toán sâu trong đất Cam Bốt và để các loại phi cơ của đơn vỉ ứng trực hàng ngày hễ có đụng chuyện là có thể cất cánh ngay. Nhiên liệu và đạn dược cho phi cơ cũng đều có sẵn để sữ dụng khi cần đến, khỏi phải bay về Pleiku.
Mỗi ngày nếu không có toán nào chuẫn bị xâm nhập thì các loại phi cọ đều bay lên CCXP để ứng trực. Trưc thăng H.34 chở thêm toán ứng trưc, BCH của CCXP gồm Si Quan CHT, nhân viên truyền tin, vài người lo việc ẩm thưc cho tất cả. Thông thường, nhiệm vụ của CCXP là theo dõi và ghi nhận những báo cáo của toán được chuyển về qua chiếc U.17 đi liên lạc với toán, rồi chuyển về Chiến Đoan. Nếu hoạt động của toán đang hành quân vẫn bình thường an toàn thì sinh hoạt của CCXP rất là nhàn hạ, Ngoài chiếc phi cơ quan sát dang bay để liên lạc với toán, tất cả nhân viên phi hành của các loại phi cơ khác chỉ có` ăn, ngủ, binh xập xám...V.v... Với cảnh “tiền đồn heo hút” nơi biên giới thì đâu có gì hấp dẫn. Leo lên nóc hầm nhìn chung quanh chỉ thấy rừng núi . Nhìn về phía Đông, hướng về Pleiku, thì chỉ thấy đồng bằng ngút ngàn lô nhô vài ngọn đối trọc thấp lè tè. Quay về hướng Tây, bên kia là vùng đất Cam Bốt với cây rừng rậm rạp, núi chập chùng về phía cực Bắc Cam Bốt. Ở đó địch cò hai Căn cứ 701 và 702 dùng làm nơi trú quân, huấn luyện, kho tàng vũ khí và lương thưc; và đớ cũng là mục tiêu dể thả toán chúng tôi vào thám sát, ghi nhận dấu vết hoạt động của địch. Ngoài ra chúng tôi còn có những mục tiêu dọc theo sông Tonlé San chạy ngoằn ngoèo về hướng Tây để theo dõi hoạt động chuyển quân của Cộng Sản Bắc Việt và Khờme đỏ. Mục tiêu xa nhất về hướng Tây Cam Bốt là sông Tonlé Kong, chảy theo hướng Bắc-Nam, nơi mà thỉnh thoảng cũng có thả toán để theo dõi hoạt động trên sông. Sơ dĩ nói là xa nhất vì đến đây là tầm hoạt động cuối cùng của phi cơ H.34. Toán được thả hay rước tại những mục tiêu này phải được thưc hiện nhanh chóng vì lượng nhiên liệu không đủ để bay về nếu thời gian kéo dài thêm . Trong thới gian còn nhảy toán, tôi đã một lần xâm nhập vùng này. Chuyến hành quân thật là nhàn hạ như là đi picnic vậy ! Sau hai ngày xâm nhập, toán tôi di chuyển ra tới bờ sông. Chúng tôi tìm một lùm bụi sát bờ sông để nằm quan sát. Suốt thời gian còn lại, chúng tôi quan sát hoạt động trễn sông và bên kia bờ. Cảnh vật cũng giống vùng thôn quê Việt Nam; cũng tiếng người gọi nhau, thuyền chèo lên xuống bên kia bờ, cũng tiếng trâu bò rống, cũng những đụn rơm ... những hình ảnh yên ả thanh bình. Còn phía bờ sông có chúng tôi hiện diện thì cũng yên lặng, chỉ thinh thoảng có tiếng súng nổ hình như chúng đi bắn chim chơi chứ không có họat động nào đáng kể. Bình lặng đến độ chúng tôi nấu nướng ngày ba bữa như la ụđang đi picnic, cũng lai rai cà phê thuốc lá. Tiếc là không có lưỡi câu để câu cá chơi giải khuây. Hàng ngày chúng tôi lần lượt luân phiên cởi quần áo mò xuông nươc ngâm mình lặn hụp tại chỗ cho mát. Lúc chuẩn bị hành quân, chúng tôi nai nịt rất là cẩn thận để đề phòng mọi thứ trong rừng : nào là áo nỉ trong cùng để ban đêm chống lạnh mà không cần đắp mền, như vậy là ba lô nhẹ được thêm một tí vì không phải mang theo mền poncho liner; nào là băng keo quấn hai tay áo và hai ống quần để sâu bo. đỉa, vắt không chui vô người. Với những thứ lỉnh kỉnh như vậy, chúng tôi vẫn giữ y nguyên từ lúc lên phi cơ di nhảy cho đến lúc trở về; có nghĩa là suốt bảy ngày hành quân, chúng tôi khong hề tắm rửa, đánh răng, rửa mặt v.v...cộng thêm với bùn đất lầy lội của rừng núi với những cơn mưa rừng tầm tã; có thể nói chúng tôi là loại lính ở dơ nhất của QLVNCH. Thế mà trong chuyến hành quân ven sông này chúng tôi được tắm rửa háng ngày thì lý thú quá đi chứ phải không các bạn. Đi picnic chứ đâu phải đi hành quân !!

Trước đây khi còn đi toán, tôi cũng đã từng dẫn toán lên đây nằm ứng trực. Một ngày sinh hoạt ở CCXP , nếu mọi chuyện bình an vô sự, thì thật là dài và chán. Cứ nằm ngủ, thức dậy ăn, chơi domino, binh xập xám hay leo lên nóc lô cốt khi trời mát để nhìn trời hiu quạnh với rừng núi thăm thẳm về hướng biên giới. Đầu tháng rủng rỉnh tí tiền thì mua bia, rượu lên đây lai rai. Mồi nhậu có khi là thịt nai săn được, được chế biến đủ thứ : Xào lăỉn, bí tết, lúc lắc, ướp cà ri nướng, tái chanh v.v... ôi thôi món nào cũng hấp dẫn để mà lai rai suốt ngày. Có những chiều mưa, ngồi trong hầm nhìn trời xám xịt, mưa cứ rả rích trong cảnh quạnh hiu của núi rừng ! Sao mà buồn thế. Tôi không cảm nhận được cái hay của bản nhạc “ Chiều mưa biên giới” chút nào cả. Không hiểu khi sáng tác bản nhạc này, nhạc sĩ Nguyễn văn Đông có ngồì ở “tiền dồn heo hút” như tôi hiện nay hay không ? Sau cơn mưa, đường sá đất đỏ lầy lội, trơn trợt; một bước chân nhấc lên kèm theo một đống sình đất dỏ nặng chình chịch dính theo giày, như vậy đó thì mê sao nổi !

Thỉnh thoảng vào cuối ngày, trước khi bay trở về Kontum; trực thăng H34 làm 1 chuyến đi săn nai. Phi cơ bay dọc theo suối, khi thấy bụi rậm nghi ngờ có nai thì hover , cây cỏ rạp xuống. nai sẽ phóng chạy. Thế là trực thăng cứ tà tà bay theo, cây đại liên cứ tà tà nã đạn cho đến khi con nai quỵ xuống.; rồi dùng hoist câu về CCXP. Mọi người phụ khiêng vứt lên phi cơ cho dược kín đáo để chở về Kontum. Với Quân Chủng kQ, việc dùng phi cơ săn nai là điều cấm kỵ theo lệnh của Bộ TTM. vi phạm là lãnh tù như chơi. Nhưng nơi chúng tôi ở là vung đèo heo hút gió gần biên giới, có ma nào ngoài chúng tôi ra đây đâu mà phải sợ. Hơn nữa pilot 219 thì còn sợ ai ! Nhưng dù sao thì kín đáo cũng vẫn hơn; rồi khi về đến Kontum, phi cơ đáp ngay trong trại thi còn an toàn nào hơn. Vào đầu mùa mưa, nai thường mọc nhung non hoặc có “hà nàm” nên những món này rất có giá trị. Nhung nai được biếu làm quà cho CHT, còn “hà nàm” thì nấu cháo cho anh em, thịt xẻ ra thì chia nhau cho quân nhân đơn vị và gia đình để nhậu. Trong các canh xập xám, đôi khi các chàng pilot hứng chí nghêu ngao khi bài mình lớn hơn bạn bè :” Ngồi trên trực thăng nhìn nai chạy trốn, nhớ nhung nai nhớ cả hà nàm “, một đoạn của bản nhạc ” Bông cỏ may “

Phần sinh hoạt của CCXP trên được kể lại vớí tình trạng toán vô sự. Còn khi toán báo cáo bị chạm địch thì sinh hoạt nào nhiệt hơn. Trước hết mọi người đều hay tin này nên tất cả chăm chú theo dõi liên lạc giữa phi cơ Ư.17.đáng trên vùng giữ nhiệm vụ trung gian liên lạc giữa toán và BCH. để biết tình trạng hiện tại của toán. Nếu Toán bị chạm địch và có thiệt hại như có người bị thương hay thất lạc thì tất cả đều chuẩn bị cất cánh để triệt xuất toán ngay. Nói là chuẩn bị nhưng cũng phải chờ phi cơ O.2 của TKS lên vùng mục tiêu để nắm vững tình hình rồi mới ra lệnh cất cánh.
Ngay khi nhận được báo cáo Toán bị đụng, TKS yêu cầu phi cơ O.2 cất cánh khẩn cấp. Sau 30 phút là TKS được bốc tại Kontum để bay lên vùng Toán đang hành quân. Trên đường đi, O.2 liên lạc trực tiếp với U.17 để biết rõ tình hình hiện tại của toán, tình hình địch chung quanh Toán.... để kip request khu trục yểm trợ cho Toán nếu cần và điều động trực thăng Cobra lên vùng để vùa yểm trợ tiếp cận cấp thời cho Toán đồng thời cover cho trực thăng H.34 xuống bốc toán. Do đó khi phi cơ O.2 đến trên mục tiêu thì mọi phương tiện yểm trợ đã được chuẩn bị sẵn sàng, cũng có thể là đang trên dường đến “Rendez- vous point”. Gần đến mục tiêu, máy truyền tin của O.2 có thể nghe được Toán nên liên lạc trưc tiếp với toán để nắm tình hình cụ thể và chi tiết : chạm địch như thế nào, bị thương hay thất lạc ra sao, tình trạng địch xung quanh v.vv . Do đó khi đến trên mục tiêu, TKS đã năm đủ các yếu tố để quyết định phương cách yểm trơ. Tuy đến trên mục tiêu nhưng đâu biết vị trí hiện tại của toán ở đâu nên ngay khi toán nghe được tiếng động cơ của O.2, toán sẽ biết dược phi cơ đến từ hướng nào của Toàn và hướng dẫn phi cơ hướng mũi về đúng vị trí của toán bằng phương thức giờ của dồng hồ: thí dụ : Tôi đang ở hướng 2 giờ của anh, thế là phi cơ đổi theo hướng 2 giò cùa mình để hướng về toán và cứ thế cho đến khi phi cơ bay ngang đầu của toán thì toán báo cho biết là “Bingo, bingo “. TKS dã biết vị trí tương đối của toán nhưng để yểm trợ, TKS bắt buộc phải thấy rõ điểm đứng của toán nên bảo toán “đốt đèn” hay “soi gương”. Khi nghe lệnh này, Toán trưởng sẽ lấy kiếng ra hướng về phi cơ lắc lắc. Từ trên phi cơ, với ánh sáng phản chiếu tư chiếc gương to như chiếc nia, TKS biết rõ vị trí hiện tại của toán và chấm tọa độ để báo về BCH, đồng thời bảo toán “ trải chiếu” râ để đánh dấu cho Cobra thấy được từng người dang quây quần xung quanh để đừng tác xạ nhầm vào quân bạn khi phải yểm trơ quá gần.
Mỗi thành viên trong toán Lôi Hổ dược trang bị ngoài vũ khí còn có các đồ dùng để mưu sinh, cấp cứu khi bị thất lạc như : Panô hai mặt vàng và màu dỏ cam, kiếng chiếu, súng pen flare, địa bàn cá nhân. Toán trưởng và toán phó được trang bị thêm máy PRC.9 cấp cuú. Máy này được sử dụng khi hữu sư như toán thất lạc, máy truyền tin PRC.25 bị mất hay hư hỏng. Máy cấp cứu này có khả năng liên lạc trên băng tần VHF và trên tần số S.O.S quốc tế với tất cả phi cơ nào bay ngang vùng dù phi cơ quân hay dân sự. Phi cơ nhận dược tín hiệu SOS sẽ nhận báo cáo của người lâm nạn và báo về hệ thống của mình để tùy nghi . Các bạn sẽ hỏi rằng làm sao để biết được người lâm nạn là ai để mà tiếp cứu ? Tôi không rõ về phía dân sự thì làm việc như thế nào, chứ mỗi mục tiêu mà Toán chúng tôi hành quân đều có một tên gọi, đươc gọi là Target Code. Chỉ cần nói Code này và người nhận chuyển về là BCH biết ngay. Trong thủ tục request phi cơ khu trục cũng có mục báo tên mục tiêu để yểm trợ bằng code này.
Riêng về kiếng “chiếu yêu”, nó chì là mảnh guong thủy tinh chữ nhật khoảng 12cm x 10cm x 3/4cm, được chế tạo sao cho khó vỡ khi có va chạm mạnh. Gương này thường được trang bị cho tụi tôi và nhân viên phi hành của Không Quân. Từ dưới đất, hướng về phía phi cơ dang bay trển trời, hơi ngược chiều ánh mặt trời, bạn lắc lắc chiếc gương; từ trên phi cơ sẽ thấy một vùng ánh sáng phản chiếu khá to giữa rừng cây xanh rậm để biết vị trí bạn đang ở đâu một cách dễ dàng. Còn panô, được gọi là “chiếu”, là mảnh vải nhựa plastic dày, kích thước quãng 8 tấc x 5 tấc; một mặt màu vàng , mặt kia màu đỏ cam. Màu này nổi bật chói chang giũa rừng cây nên dễ nhận biết. Tụi tôi thường may lót mặt trong của mũ đi rùng, khi cần dùng đến là lộn ngược ra đội lên và ngồi quây quần tạo thành một vòng tròn cho phi cơ Cobra dễ phân biệt “phe ta” và “phe địch” khi yểm trợ tiếp cận.

Trong trường hợp Toan bị thất lạc, khi tôi lên vùng thì chỉ liên lạc được với nhóm có máy để nghe báo cáo tình trạng toán, còn người thất lạc thì đâu có gì đễ liên lạc nên tối chỉ thấy ánh kiếng chiếu lên để báo cho phi cơ biết vị trí hiện tai. Trong trường họp này tôi làm việc với nhóm có máy để lo bốc nhóm này ra trước rồi sau đó mới điều động phi cơ đến bốc người bị thất lạc. Vì không có máy để liên lạc với nhau nẻn tôi không thể nào phân biệt được là có bị địch uy hiếp hay không, do đó tôi cho Cobra bay thấp và quan sát ghi nhận dấu hiệu địch, sau đó báo cho chiếc H.34 vừa bốc toán lên đáp xuống lần nữa với sự yểm trợ chặt chẽ của Cobra để Toán trưởng nhận diện người bị thất lạc hoặc nếu có bị uy hiếp ép buộc gọi phi cơ thì sẽ kịp thời phản ứng ngay.

Một lúc sau. đúng giờ hẹn ở “ Rendez-vous point “, phi cơ khu trục sẽ liên lạc với FAC để hai bên thấy rõ nhau và bắt đầu công tác yểm trợ, tùy theo tình hình hiện tại của toán để yểm trợ khi toán yêu cầu. Phi công O.2 hướng dẫn điều chỉnh oanh kích với khu trục qua trung gian của TKS theo yêu cầu của toán và cũng tùy tình trạng mục tiêu để sử dụng loại bom thích hợp. Thường thường Khu trục A1É trang bị bom 250 pounds và Napalm cùng đại liên 20 ly. Nếu chúng tôi thấy nhu cầu yểm trợ cần trang bị loại nào khác thì yêu cầu ngay khi gởi order cho Trung Tâm Không Trợ 2 (Peacock)

Loại phi cơ Skyraider A1E rất thích hợp với công tác của tụi tôi vì thời gian ở trên vùng lâu và trang bị dồi dào hợn phản lưc cơ A37. Phi đoàn khu trục thường xuyên làm việc với chúng tôi trên địa bàn này là Phi Đoàn 530 thuộc SĐ6KQ.danh hiệu là Jupiter hay Thái Dương Nhũng pilot Phi đoàn này như : Đ/Uy Hà, Đ/Uy Thặng, Chỉnh, Độ .. là những giọng nói quen thuộc trên vô tuyến khi làm việc với nhau và cũng chỉ quen nhau qua giọng nói mà thôi. Riêng Đ/Uy Hà thì ngày tôi còn đi toán, trong một phi vụ yểm trợ cho toán ở vùng Tam Biên, Phi cơ Đ/Úy Hà bị bắn nên phải nhảy dù , toán chúng tôi đã nhảy xuống để recue gần trại Ben Het.
Trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, trong một phi vụ yểm trợ thanh phố Kontum, Phi cơ Đ/Úy Thặng bị bắn phải đáp khẩn cấp ở trên cồn cát sông Dakbla và bị cháy, mang đi vĩnh viễn ngưới hùng của PD530. Lúc đó hình như tôi đang bay trên L.19 trong một công tác khác, hay tin này trên vô tuyến nên tôi bay ngang chỗ crash, lắc cánh chào tiễn biệt.

Phải công nhận là A1E đánh rất đẹp và chính xác. Cứ cho đánh single để thấy hai chiếc luân phiên nhào lộn lao vào đánh. Nghe hai chiếc trao dổi vô tuyến với nhau :” Number 1 rolling !, Number 2 rolling !” hoặc “ Số 2 đánh dài hơn 50 mét ! OK ! Number 2 rolling ! “ rồi nhào xuống; ngồi trên O2 nhìn thật là dã mắt. Có những khi Toán không cần yểm trợ của khu trục, tôi cho khu trục làm orbit đợi cho đến khi bốc toán ra xong xuôi, phi cơ O2 dẫn đến một điễm ghi nhận là kho tàng nào đó của CS để đánh cho hết bom hoặc đến free zone để làm B52 thả ào một phát cho xong. Trên đường về, FAC Mỹ bay formation với 2 chiêc Khu trục để quay phim. Thật là đẹp ! Sau A1E là loại F4 Phantom của một phi doàn Mỹ nào đó mà tôi không nhớ danh hiệu, pilot Phi Đoan này đánh cũng rất đẹp. Nhìn khu trục phản lực nhào lôn thiệt là khoái con mắt.
Sau phi tuần khu trục, các phương tiện đã tụ tập động đủ, tôi báo cho Toán chuẩn bỉ an ninh bãi đáp để cho H34 xuống triệt xuất, Hai Cobra nãy giờ ở trên cao chờ đợi, bây giò được lệnh xuống clear bãi . Chiếc sau theo chiếc trước bay vong vòng quanh bãi để quan sát và sẵn sàng yểm trợ theo yêu cầu trực tiếp của Toán trưởng qua tần số PRC25 của toán. Khi thấy bãi đáp an toàn, họ báo cho H34 xuống bốc toán ra. Ngồi trên O2 theo dõi diễn tiến và monitor qua các hệ thống truyền tin UHF, giữa các phi cơ với nhau, FM giữa toán và Cobra; tôi yên lặng để quan sát các phương tịện phối hợp nhau một cách nhịp nhàng trong công việc triệt xuât. Nhịp nhàng là vì chúng tôi đã làm việc với nhau thường xuyên nên hiểu rõ những gì cần làm trong những công tác này. Trường hơp LZ tốt, trực thăng đáp ngon lành thì toán leo lên phi cơ cũng ngon lành, đàng hoàng ngồi trên sàn phi cơ . Còn trường hợp bãi đáp xấu như : hẹp, có cây cao xung quanh nên trưc thăng không thể chạm đất dược. Trong trường hợp này Toán phải leo thang được thả xuống từ phi cơ trực thăng hay phải câu về.

Chuyến nhảy đầu tiên “ thử gió “ của tôi khi mới về đọn vị là tại vùng Hạ Lào. Vùng này nhiều núi nên kiếm bãi đáp rất khó. Sau 7 ngày hành quân an lành, tôi đi tìm bãi triệt xuất. Vì là chuyến đầu tiên nên chưa có kinh nghiệm . Khi tìm ra được một chỗ trống, tôi hỏi các toán viên, đứa nào cũng nói tốt rồi ông thầy, yên chí đi . Đến khi triệt xuất, phi cơ H34 len lỏi hoài cũng không đáp dược nên phải thả thang dây xuống. Theo nguyên tắc, khi triệt xuất Toán trưởng là người mang máy PRC25 để trực tiếp liên lạc với phi cơ và là người lên sau cùng. Tôi cố bám từng nấc thang để leo lên, nhưng máy truyền tin ghì tôi ra phía sau nên tôi không thể nào leo lên thêm được. Tôi bèn móc khoen sắt chữ D vào thanh thang bằng nhôm để giữ người tôi lại, hai tay móc vào thanh thang và ghì lấy ót, cứ thế mà đong đưa cho đến khi về đến trại Ben Het mới đáp xuống để tôi leo lên phi cơ với toán; các toán viên xúm lại bóp tay chân tôi vì bị tê sau gần nửa tiếng đồng hồ ngồi trong tư thế đó.â.
Còn trường hơp câu thì tôi chưa được nếm mùitrong hành quân nhưng qua huấn luyện thì tôi đã được thực hành như sau : Trên mỗi dây ba chạc mang băng dạn và bi đông nước có hai cái khoen chữ D móc trên vai; trực thăng thả xuống một sợi dây dù cò khoen sắt ở đầu dây được cột thêm bao cát cho nặng, toán viên chỉ cần móc khoen của mình vào khoen của sợi dây. Khi tất cả đã móc xong thì ra hiệu cho phi cơ bốc lên, thế là tòn teng câu về. Lối câu này có phần nguy hiểm vì trực thăng phải chú ý bốc cao khỏi ngọn cây rồi mới bay tới, nếu không người được câu sẽ va vào thân cây. Khi lên trên không, các người được câu phải ôm lấy nhau để đề phòng trường hợp dây bị xoắn vì gió.
Những chuyên nhảy sau đó là vùng cực Bắc Cam Bốt, phần lớn là đồng bằng nên tỉm bãi đáp dễ và tốt hơn nhiều .Khi ngồi được trên sàn phi cơ, tôi cảm thấy lòng nhẹ nhõm vì cả toán đã chấm dứt nhiệm vụ sau 7 ngày hành quân, chấm dưt những ngày lặn lội trong rừng già Trường Sơn, những đêm chui rúc giữa lùm bụi để tìm chỗ ngủ. Xin giã từ núi rừng Trường Sơn ! Chắc chắn chẳng bao giờ chúng tôi trở lại chốn này và chắc cũng chẳng bao giớ có ai khác đặt chân đến đây ! Trả lại sự yên lẵng âm u của núi rừng cho ngàn đời sau.
@ @ @
Trường hợp trên là Toán bị chạm địch chỉ thất lạc nhưng không có ai bị thương. Nếu có người bị thương với vết thương nặng thì có thể coi như bỏ xác trong rừng là chuyện thường. Các bạn thử tưởng tượng một toán di chuyển trong vùng rừng núi chập chùng với quân số 4 hay 6 người. mà một người bị thương.thì tình trạng di chuyển sẽ tệ hại như thế nào ? Rồi nếu bị địch theo dõi nữa thì sẽ ra sao ? Thật là thiên nan vạn nan...
Trong cuộc dòi nhảy toán tôi gặp hai trường hợp nguy khốn sau :

Vừa nhảy xuông qua được một đêm, ngày hôm sau di chuyễn đến mục tiêu vẫn chưa ghi nhận được gì; đến chiều chúng tôi dừng quân chuẩn bị chỗ ngủ . Trong lúc chờ trời tối để ngủ, tôi đang ngồi ngắm cảnh rừng núi âm u trong buổi hoàng hôn mà nhớ nhung lung tung : nhớ phố phường, nhớ các cô em gái hậu phương, ngồi tính nhẩm xem còn bao nhiêu ngày nữa thì được triệt xuất v.v... Người biệt kích quân dần đầu ném cục đất về phía tôi và chỉ chỉ ngón tay về hường nghi ngờ có địch; tôi mang lại dây đạn và cầm súng lên hướng về phía đó; tôi chưa nhìn đươc bóng dáng chú VC nào thì nghe có tiếng súng nổ ở phía người đi đầu. Tất cả toán cùng vùng dậy nổ súng đồng loạt hướng về phía đó rồi dán hàng ngang tiến về phía đỉnh. cách chỗ dừng quân khoạng 50 thước. Trời lúc này đã nhá nhem tối, đang cố bước lên dốc về phía đỉnh núi thì nghe một loạt súng nổ và nghe tiếng la của một toán viên : Chết toi rồi ông ơi ! “. Tôi cũng vừa chạy tới thì thấy người toán viên đang nằm lăn lộn; tôi bèn luồn tay vô dưới áo coi người này bị thương như thế nào thì ngón tay tôi lọt vô một lỗ sâu hoắm ở bên cạnh sườn ngang ngực., tôi biết ngay là vết thương rất nặng nên không thể nào mang theo được. Tôi không kịp lột một món gì đó để mang về làm bằng chứng và chạy tiếp theo anh em trong toán. Đêm đó chúng tôi di chuyển suốt đêm, hết trèo dốc lại tuột dốc để di chuyển ra xa khu vực chạm súng. Trời tối thăm thẳm, chúng tôi lần dò từng bước theo nhau, người sau theo người trước; lúc nào mệt thì ngồi dạng hai chân bám vào một thân cây để nghỉ và gục đầu vào thân cây để ngủ. Ngồi trên sườn núi, tôi nghe tiếng lội bì bõm của VC đang di tìm dọc theo suối , chúng vừa đi vừa nói chuyện nhưng nghe không rõ.
Nguyên ngày hôm sau di chuyển tương đối yên tĩnh, có lẽ đã ra khỏi “ổ kiến lửa”. Chúng tôi coi như mất điểm dứng vì di chuyển suốt đêm qua đâu có theo phương giác nào đâu; cứ chạy mệt thì ngối nghỉ, rồi lại di chuyển tiếip tục, cứ thế mà chạy trong đêm đen, đâu có ước lượng gì được quãng cách. Quãng gần trưa thì báo cáo được tình trạng hiện tại của toán và xin phi cơ chấm điểm đứng cho toán. Trong lúc đang liên lạc truyền tin thì nghe có tiếng động, chúng tôi vội bố trí hướng về phía đó. Tôi nằm quay đầu ngược hướng với người toán trưởng,là Ch/úy Minh tục gọi là Minh Lai; tôi quay đầu ra sau để nhìn xem tình hình như thề nào thì thấy Minh Lai ngồi bật dậy và nổ súng về hướng trước mặt hắn rồi quay người phóng vọt qua người tôi và chạy về hướng tay phải. Tôi cũng bật dậy và chạy về hướng trước mặt, Ch/Uy Tiếng và vài toán viên nữa chạy theo tôi, trong đó có người Hiệu thính viên. Chạy được quãng 10 thước tất cả chúng tôi dừng lại; tôi thì thào hỏi Ch/Uy Tiếng :” Mày tính sao ? “, “ Mày là toán phó thì tùy mày quyết điinh” Tiếng trả lời. Tôi cầm máy cấp cứu PRC.9 , lúc đó đang hoạt dộng, gọi cho Minh Lai nhưng không thấy trả lòi, thế là tôi quyết định cho tất cả những người còn lại tiếp tục di chuyển.

Tôi xin mở ngoặc để giải thích tại sao tôi là Toán Phó cho Ch/Uy Minh :
Ngày tôi là Toán Trưởng toán Sơn Lôi, trong chuyến hành quân đầu tiên, toán tôi được thả xuống mục tiêu quãng 5 giờ chiều. Người HSQ toán phó góp ý :” Ông báo cáo là mình xuống bãi bị đụng để được bốc về ngay đi. Xâm nhập trễ như vầy rất là nguy hiểm “. Thế là tôi làm theo. Sau đó toán được yểm trợ để dược triệt xuất.
Theo kinh nghiệm của những người đi nhảy toán lâu năm, thì xâm nhập vào giờ trễ như thế rất nguy hiểm cho Toán vì trời sắp tối Trong thời gian đầu vừa nhảy xuống, chúng tôi chưa nắm được tình hình khu vực như thế nào, nếu trong lúc di chuyển mà bị địch theo dõi hoặc chạm địch thì khó có được sứ yểm trợ tiếp cận và các phương tiện KQ không thể triệt xuất cấp tốc. Thông thường nếu vì bất cứ lý do gì mà cuộc đổ quân thực hiện ở thời điểm muộn như thế thì cuộc xâm nhập dược hoãn qua ngày hôm sau. Hôm đó không hiểu sao nguyên tắc này không được tôn trọng trong khi tôi là lính mới nên không biết điều này. Sau vụ này, Thiếu Tá CHT cho là tôi bị thuộc cấp mener nên đưa tôi qua làm Toán Phó cho Minh Lai và nhảy chuyên đầu tiên là bị như trên. Riêng Ch/Úy Tiếng thì là Si Quan mới được thuyên chuyển về Kontum từ CĐ3XK ở Ban Mê Thuột. lý do là “ chống Mỹ cứu nước “ sao đó ở đơn vị cũ và cũng sẵn chuyến hành quân này nên CHT cho đi theo với tính cách Quan Sát viên, do đó lần hành quân này, Toán có tới 3 Si Quan.
Trong lúc di chuyển, tôi báo cáo dược tình trạng hiện tại của Toán : một Toán viên được ghi nhận là chết và Toán Trưởng mất tích và xin triệt xuất khẩn cấp. Toán được bốc về trong ngày. Khi tái thuyết trình về chuyến hành quân vừa qua, tôi và Tiếng tường thuật các chi tiết diễn tiến; đơn vị cho phi cơ bay lên vùng để tìm kiếm xem có dấu vết gì của người bị mất tích không vì cũng có thể phải lẩn trốn đâu đó nên chưa có dịp ra liên lạc với phi cơ đang bay tìm. Nhưng sau ba ngày, tôi và Tiếng dẫn một toán khác nhảy trở lại mục tiêu cũ để tìm kiếm và lấy xác nếu có thể.. Nhưng sau một ngày lặn lội, chứng tôi không thấy gì cả, chỉ thấy những dấu vết trên thân cây bị đạn do cuộc giao tranh vừa rồi mà thôi. Trong lúc toán nằm tại bãi đáp để chờ trực thăng đến triêt xuất , Tộan lại bị theo dõi và chạm súng ; nhưng nhờ các phương tiện đều đang chuẩn bị nên khu trục có thể yểm trơ ngay và lần này Toán Trưởng của Toán chúng tôi đi cùng bị một mảnh bom chém ngay bắp vế, Kết quả cuối cùng là một chết mà không mang xác về được và một Sĩ Quan Toán Trưởng mất tích.

Lôi Hổ chết không người xây mộ,
Lá vàng rơi phủ lấy xác thân

Hai câu thơ trên đã nói lên trọn vẹn thân phận của người lính Biệt Kích khi tử trận. Đó là điều không thể tránh được vì với công tác của chúng tôi, thân ai nấy lo có nghĩa là tự mình phải mang tất cả những gì mình cần dùng khi đi hành quân, đâu có ai mang hộ cho mình; do đó làm sao mà khiêng thêm một người bị thương nặng đến độ không di chuyển được, nhất là với địa thế núi rừng Trường Sơn và trong lòng căn cứ địch.

Chuyến hành quân thứ hai với quân số 6 người. Vào ngày thứ nhì, trong lúc đang dừng quân nghỉ mệt, người Toán Phó bào cho tôi biết có địch theo dõi; tất cả trong tư thế sẵn sàng. Bỗng một loạt súng nổ rền, tôi chồm lên nổ về phía nghi ngờ. rồi dzọt. Người Trung Sĩ Toán phó, tên là Bảo, báo tôi biết là bị thương. Tôi quay lại coi thì thấy anh ta bị thương nơi mông, tôi hỏi có chạy được không thì anh ta trả lời là dược; thế là chúng tôi rút lui. Khi gom góp toán lại thì thấy một người vắng mặt, coi như tổng kết là một bị thương, một mất tích Chúng tôi tiếp tục rút lui trong cơn mưa tầm tả. Mưa rừng Trường Sơn dai dẳng, cứ rả rích mưa hoài, xung quanh được bao phủ một màn sương trắng đục, không khí lạnh phủ kín thung lũng một màn tráng xóa không còn nhìn thấy được gì cả.; Chúng tôi cứ thế` lần dò từng bước trơn trợt xuống triền dốc, lá vàng rơi rụng đã từ bao nhiêu đời phủ dày mặt dất. bị bước chân trơn làm lộ từng mãng lớn. Tôi bảo toán viên gài mìn M.14 dưới những mãng trơn trợt đó và tiếp tục di chuyển. Trung Sĩ Bảo cứ cà nhắc di chuyển theo toán; phần bị thương, phần ướt đẫm nước múa nên trông cứ tái xám. Ở nhà đã biết tình trạng chúng tôi nhưng vì thời tiết quá xấu, mây mù và mưa, nên không thể đưa phương tiện vào triệt xuất chúng tôi được. Đêm đến, tôi cuộn chung poncho với Trung Sĩ Bảo ngõ hầu ấm áp dược cho cả hai phần nào; bao nhiêu thuốc trụ sinh mang theo tôi đều xài cho Bảo. Nằm trên poncho mà cũng như không vì nước cứ lấp xấp vì mặt đất đều bị sũng nước mưa. Tôi trùm lại để dốt điếu thuốc hầu sưởi ấm cho Bảo.phần nào.
Trọn sáng ngày hôm sau vẫn tiếp tục di chuyển; trơìụ tương đối sáng sủa nhưng vẫn chưa tìm được bãi đáp. Chúng tôi hy vọng sẽ được triệt xuất trong ngày hôm nay vì thời tiết có vẻ sáng sủa, trời quang mây tạnh. Đang ngồi nghỉ mêt ở một triền núi , tôi bỗng nghe 2 tiếng nổ âm vang giữa núi rừng, cách nhau quãng vài ba giây, sau đó là một loạt súng AK. Thoạt đầu tôi nghĩ là địch pháo kích, nhưng người toán viên nói” Mìn Ch/Úy, mìn Ch/Úy”, tôi mới nhớ ra là mìn M.14 mình cho chôn hôm qua.. Thế là cả toán chạy tiếp vì biết là địch đang theo dấu vết của chúng tôi. Chắc là có vài tên VC đang mò mẫm theo dấu vết do chúng tôi để lại rồi đạp phải trái mìn chống người M.14, kế đó ngã đè lên trái thứ hai nổ tiếp, rồi mấy tên đi cùng hốt hoảng nổ súng.
Mãi đến chiều hôm đớ phương tiện mới vào bốc chúng tôi ra, trong lúc đang làm việc với chúng tôi, phi cơ O.2 cũng thấy kiếng chiếu lên của người đang bị thất lạc và sau đó bốc luôn.Trung sĩ Bảo được chữa tri và sau đó chân đi hơi khập khiễng vì vết thương ở mông. Tôi hỏi người toán viên bị thất lạc về những gì đã xảy ra thì anh ta kể :” Sau khi nghe nổ súng thì anh ta dzọt thẳng, sau đó nhìn lsị thì không thấy ai chạy theo nên anh ta kiếm chỗ trốn, chờ máy bay lên thì ra chiếu kiếng.
Trong hoạt đông cấp Toán của chúng tôi, đi hành quân càng ít người càng nhiều thuận lợi: trực thăng chỉ đáp xuống LZ một lần và vì chở nhẹ nên đáp nhanh và dễ, Toán di chuyển ít gây tiếng động, tập trung gọn gàng, chui rúc dễ dàng và cùng nhau chạy cũng gọn; buổi tối kiếm chỗ ngủ cũng dễ vì có ít người nên lùm bụi nhỏ nào cũng chui vào đươc cả....Cũng vì ít người, từ 4 đến 6 người, nên nếu chẳng may cò người bị thương nặng là coi như gởi xác lại trong rừng. Tính theo tỉ lệ thì binh chủng chúng tôi có tỉ lệ tử trân thấp nhất vì nhiệm vụ của chúng tôi là thám sát , theo dõi chứ đâu phải là nghênh chiến; lúc nào cũng chỉ lẫn tránh, rinh mò...bất đắc dĩ mới tao ngộ chiến. Mà khi tao ngộ, chúng tôi thường là người nổ súng trước rồi chạy vì trong rừng rậm, dù cho địch theo dõi cũng chỉ lần theo dấu vết hay theo hướng có tiếng động chứ khó mà trông thấy nhau. Trường hợp chúng tôi dừng chân ngồi nghỉ, địch đang đi theo, lò dò dẫn xác vào thì chỉ có ăn đạn thôi. Những chỗ địch thường đóng quân là ở những nơi gần suối hay vùng đất phẳng, đồng bằng để tiện sinh hoạt và trồng trọt, còn chúng tôi di chuyển thì thường là trên triền núi nên co thể chỉ nghe tiếng động do sinh hoạt gây nên chứ khó mà gặp mặt.
Thông thường là như thế, nhưng nếu Toán được thả ngay “ổ kiến lửa” thì thôi, không còn gì để noíù nữa vì có còn sống đậu để mà nói.


@ @ @



- Hello ! Xin lỗi có phải anh Nguyễn hữu Tho không ạ ?
- Dạ vâng, tôi đây ! Xin lỗi tôi đươc tiếp chuyện vơiù ai ?
- À ! Anh có quen ai tên là Trương thành Đao không ?
- Dạ biết chứ ! Trương thành Đạo trước ở B.15 mà !
- Thưa đúng vậy ! Tôi là vợ anh Đạo.
- Ồ ! Cô H. đó phải không ?

Thật là bất ngờ ngoàI cả dự định. Từ năm 1982, sau khi tôi ra khỏi trại cải tạo đến nay tôi mới lại liên lạc dược với cô H. Hai mươi hai năm rồi chứ ít gì !!
Tôi còn nhớ năm đó, khi vừa ra tù, tình cờ tôi gặp một người bạn cùng đơn vị , đang chạy xe ba bánh. Nó hỏi tôi còn nhớ cô H vợ thằng Đạo không và cho tôi biết tin tức và địa chỉ. Tôi liền đến thăm thì được cho biết tin là bạn tôi đã chết trên đuong vượt biên cùng với vợ con. Trên chuyến ghe chạy ra cửa biển để lên tàu lớn, ghe bị du kích chận bắt và nổ súng. trên ghe không ai bị đạn, chỉ có thằng bạn tôi lãnh một viên và chết tốt. Theo lời kể, nó cũng ra tù cùng một thời điểm với tôi, nghĩa là cũng đã gỡ 6.1/2 cúốn lịch.nhưng ở khác trại. Vài tháng sau có chuyến đi mà gia dình đã chuẩn bị từ trước nên đem nó theo. Bẵng đi từ đó, tôi không còn biết tin tức gì nữa về cô H và hai cháu.

Trương thành Đạo là một trong những Sĩ Quan vễ Sở Liên Lạc sau khi ra trường Bộ Binh TĐ; nhưng nó thì về Ban Mê Thuột, còn tôi thì về Kontum. Vài tháng sau nó cũng chuyển về Kontum chung đơn vị với tôi là B.15.
Chiến Doàn 2 Xung Kích lúc đó thành lập 10 toán Việt Nam , tên các toán có chữ thứ hai là LÔI, chỉ khác nhau chữ đầu : Phong Lôi, Hỏa Lôi, Kim Lôi...... Toán của Đạo là Thiên Lôi. Toán này có cái đặc biệt là sử dụng toán viên là cán binh Việt Cộng chiêu hồi, được tuyển dụng từ Trung Tâm Chiêu Hồi Thị Nghè. Theo tôi nhớ, toán này gồm 3,4 cán binh MTGPMN và 1 Bộ đội CSBV. Với những người miền Nam, họ nói chuyện cởi mở trong khi chuyện trò, còn người Cán binh miền Bắc thì có vẻ ngổ ngào hơn. Thỉnh thoảng hắn nói to lên những lời thông báo trên loa báo động cho dân chúng biết máy bay Mỹ đang đến oanh tạc. Lúc đó tôi nghe những lời này và có cảm tưởng hơi quái đản vì không hề nghe thấy bao giờ trước đó. Sau 4/75, chắc hẳn các bạn cũng đã nghe trên loa phóng thanh những lời thông báo chua như dấm chứ gì !
Vì toàn là Chiêu hồi nên Đạo chỉ có nhiệm vụ huấn luyện và tổ chức hành quân chứ không nhảy cùng với toán của mình như các toán khác. Các toán viên của toán Thiên Lôi cũng sinh hoạt bình thường như chung tôi trong doanh trại. Tuy nhiên dưới mắt tôi lúc đó thì cũng hơi tò mò vì các thành phần chiêu hồi này. Một vài lần nói chuyện với họ, tôi cũng hỏi thăm về những sinh hoạt của họ trong đơn vị CS trước đây; ngoài ra tôi cũng không chú ý đến công tác của toán này. Tôi chỉ nhớ khi tôi đi bay liên lạc hàng ngày, thì ngày hôm trước tôi thấy toán ở một vị trí, đến hôm sau thì họ đã ở cách chỗ ngày hôm qua hàng vài ba cây số. Và mỗi lần báo cáo, họ báo cáo rất to chứ không thì thào như chúng tôi.Thì ra với kinh nghiệm vượt Trường Sơn để xâm nhập vô miền Nam, họ dã quá biết tình hình hoạt động trong rừng của các đơn vị CS nên khi quan sát những dấu vết còn để lại, họ biết là có hay không có người đang ở quanh đây nên họ không cần dè dặt như chúng tôi. Hơn nữa với tình hình ghi nhận như thế, họ cứ phom phom đi theo đường mòn trên đỉnh núi chứ đâu cần dò dẫm và băng rừng vượt núi theo phương giác như chúng tôi. Thả họ vô rừng như thả hổ về rừng, họ mặc sức tung hoành mà không cần huấn luyện kỹ càng như chúng` tôi đã được huấn luyện trước đây. Và cũng chính vì thế mà người toán trưởng không thể đi hành quân chung với họ. Tin thế nào dược !!!
Thường thường, một mục tiêu có giới hạn trên bản đồ là 6 ô vuông, tức là một khu vực 36 cây số vuông. Khi nhận lệnh hành quân và nghiên cứu tình hình, nhiệm vụ, cũng chỉ trong giới hạn đó mà thôi. Thiết kế lộ trình di chuyển trong thời gian hành quân 7 ngày , chúng tôi di chuyển quanh quẩn khoảng vài cây số từ bãi đáp nhảy xuống cho đến bãi đáp triệt xuất. Bao nhiêu đó cũng đã quá mệt cho chúng tôi vì phải di chuyển vượt từ sườn núi này qua sườn núi khác, rồi băng rừng vượt suối. Có những khu vực rừng già thì di chuyển tương đối dễ, chỉ bị trơn trợt vào mùa mưa vì lá rụng dày dặt, chồng chất có lẽ từ thuở khai thiên lập địa cho đến ngày chúng tôi đặt chân đến. Còn gặp phải rừng tre thì chỉ có nước khóc ròng vì tre giăng chằng chịt, rồi gai góc, muỗi, vắt; dây leo, chúng tôi phải lần dò từng bước...làm sao mà di chuyển cho nhanh được ! Có nhừng loại gai rất là quái ác: nhìn nó to, cong như sừng trâu, mũi rất nhọn, quái ác là nó mọc ngược nên luôn luôn chực móc vào mọi vật khi tiến tới. Bị nó móc là phải dừng lại ngay vì nó giữ chặt không sao bước tới được, rồi mới từ từ gỡ ra đi tiếp; nếu lỡ trớn bước tới là áo quần bị rách ngay. Với các toán thì mục tiêu giới hạn là như thế; nhưng với toán Thiên Lôi thì không giới hạn vì như đã trình bày ở trên, giới hạn thế nào được khi thả họ xuống một nơi mà không có người đang sinh hoạt do đó họ đâu cần lần dò từng bước như chúng tôi. Quân phục và vũ khí của họ cũng dược trang bị như của cán binh xâm nhập nên họ không ngại ngần khi tao ngộ chiến. Chắc hẳn cũng sẽ hỏi thăm nhau : “đồng chí thế này, thế kia ...” rồi dường ai nấy đi chứ không cần nổ ngay như trường hợp chúng tôi gặp tao ngộ chiến. Đó cũng là một lợi thế trong loại công tác của chúng tôi mà không phải dễ dàng gì được huấn luyện hoặc giả dạng được vì cỏn tùy thuộc vào giong nói, vóc dáng, những am tường về tình hình hoạt động của CS trong đường dây xâm nhập v.v...Măt mũi như tôi, đen đũi, để bộ râu mép rậm rạp và không có nét “răng hô mã tấu” thì làm sao mà tin được tôi là cán bộ CS đang trên đường xâm nhập !
Về sau này, tôi cũng không còn nhớ vì lý do gì và kễ từ lúc nào toán Thiên Lôi không còn hoạt động nữa và Trương thành Đạo đã đảm trách một công việc khác của đơn vị, hình như là về Không Ảnh.

Cô H. đã nói với tôi là tình cờ đọc được bài viết trên báo Lý Tưởng viết về B.15 với tên ký là Lôi Hổ Nguyễn hữu Tho thì không còn nghi ngờ gì nữa nên đã gọi phone cho tôi theo như số phone tôi ghi trong bài. Và cũng từ đó tôi bắt liên lạc được với một người quen đã bặt tin từ 22 năm nay.ỉ Sau chuyến vượt biên thất bại, hậu quả là góa bụa, vài tháng sau có chuyến đi nữa, cô H. và hai con đi tiếp và thoát đến bến bờ tự do.Tự do mà cô đã phải trả bằng một giá quá đắt
Cũng qua bài viết “ Xá gì SA.7 !!!” đăng trên Lý Tưởng số phát hành tháng 3/04, tôi cũng liên lạc được với BS Bùi trọng Căn, Trưởng Ty Y Tế Pleiku qua sự giới thiệu cùa BS Nguyễn gia Tiến, Bác Sĩ Không Quân, hiện đang ở Thụy Sĩ Rồi từ Bác Sĩ Căn, tôi liên lạc được với những người bạn bặt tin từ 40 năm nay. Và vui nhất là cũng nhờ BS Căn, tôi liên lạc được với Trung Úy Lê nghĩa Dũng, Quân Vận Khu Pleiku là em của Bác Sĩ Lê thiện Ý LLĐB/QK2., hiện đang ở Canada. Ngoài ra còn có anh Bun, PĐ229 cũng gọi phone cho tôi để chuyện trò về những lần thả toán trước đây
Năm 1999, trong lần về Cali để thăm Thủ Đô Tị nạn, tôi được dịp gặp gỡ những bản bè cùng Binh chủng hoặc cùng đơn vị xưa kia. Ngoài hàn huyên và nhắc lại chuyện xưa tích cũ, có một chị vợ người bạn là dân Kontum, cho biết là vừa về VN và ra Kontum thăm gia đình, theo lời chị ấy thì doanh trại của B.15 trước đây, giờ không còn một dấu tích gì . Và cũng theo lời cô H. thì trong một chuyến về VN, theo ông anh lên Pleiku công tác, có ghé lên Kontum, cô không còn tìm được một dấu vết gì ngày trước. Mọi hình ảnh của B15 và phố phường của Kontum không còn lưu lại một tí dấu tích gì của gần 30 năm về trước. Tất cả đã đổi thay ! Nếu có hỏi lớp người ở lứa tuổi 30, 35 hiện tại về B15, ai cũng lắc đầu không biết nó là cái quái gì.

Tất cả giờ đây chỉ còn là ký ức và rồi cũng sẽ phôi pha cùng thời gian. Lớp lính tráng Lôi Hổ năm xưa , đã một thời ngang dọc, tung hoành trong núi rừng Trường Sơn, đã một thời quậy phá thị xã Kontum cũng dần dần già nua tàn lụi theo năm tháng. Người ra đi mang kiếp lưu vong, không quê hương,; kẻ ở lại ngậm dắng nuốt cay trong muôn vàn khổ cưc; vất vưởng trong xã hội mà kẻ thắng trận đang tàn phá đất nước và rồi sẽ xuôi tay nhắm mắt , ôm theo nỗi tiếc nuối của một thơi dọc ngang.

Tháng 4 Đen, 2004
Lôi Hổ Nguyễn hữu Thọ
CĐ2XK/SLL/NKT/TTM
B15 - Kontum

Xá gì SA.7 ! !

  Sá gì SA 7 ! !

          Mở choàng măt tỉnh dậy, tôi nhìn thấy anh Quế, ông anh rể họ, tôi hỏi anh :
-         Cô khỏe chú anh ? ( Cô mà tôi hỏi là mẹ vợ anh ấy )
Rồi lại tiếp tục mê man. Những hình ảnh mà tôi nhớ dược trong trí khi chợt tỉnh giấc ở QYV Ban Mê Thuột chỉ có thế. Sau đó là những cơn đau trong lồng ngực vì xe di chuyển dằn xóc trên dường chở tôi từ nơi chụp quang tuyến X về lại trại bệnh; cơn đau như bị ai bóp thắt lồng ngưc bên trái khiến tôi phải rên la. Vợ tôi đi theo trên cùng chuyến xe chỉ biết nắm tay tôi siết chặt để chia xẻ.
          Theo lời kể lại của vợ tôi, khi nàng đến QYV, thì thấy tôi đang nằm mê man trên giuong. Môt chị lo chăm sóc cho chồng đã nói với vợ tôi :
“ Chị lo cho anh ấy nha, hai hôm nay tôi phải cho anh ấy uống nước và đi tiểu vì không có ai lo cho anh ấy cả.” Vợ tôi kể tiếp :” Khi tôi nhìn thấy nàng, tôi hỏi : Ủa, sao mà dám ra dây vậy ?” Có lẽ lúc đó tôi nghĩ vì chúng tôi chưa lấy nhau nên chuyện vợ tôi bỏ Saigon lên  đây với tôi sẽ bị gia đình rầy la.

          Sở dĩ vợ tôi biết tin tôi bị thương là vì sau khi tôi theo đơn vị tăng phái cho Tiểu Khu Quảng Ðức được vài hôm, Tr/Úy Dũng, bạn tôi đang làm việc ở Quân Vận Pleiku, tìm gặp vợ tôi báo tin :” Tôi tính không báo tin cho chị sợ chị lo, nhưng tôi nghĩ là chị nên đi dễ có gì còn có người lo cho anh ấy. Trong đơn vị nói anh ấy không sao cả, chị cứ yên tâm, hiện đã dược dưa về QYV Ban Mê Thuột.” Dược tin này, vợ tôi vào xin phép để đi thăm tôi. Bác Sĩ Căn, Trưởng Ty Y Tế Pleiku chấp thuận ngay. Anh Quế, mà tôi đề cập đến ở phần đầu, là Thanh Tra Bộ Tài Chánh ra công tác thanh tra gì đó ở Ty Y Tế Pleiku, nên sẵn dịp này cũng biết được tin tôi bị thương nên đã ghé QYV thăm tôi trên đường công tác sau đó là Ban Me Thuột.

          Nằm diều trị đươc quãng một tuần, dần dần tôi cảm thấy cơn đau ngưc giảm nhiều; tôi không còn cảm thấy đau nhói sau mỗi lần ho hay nhảy mũi. Tuy nhiên khi đụng dến lồng ngưc bên trái, tôi vẫn cảm thấy đau. Những ngày đầu vợ tôi phải đút cho tôi ăn vì tay phải của tôi hoạt dông rất khó khăn, tôi không thể điều khiển các ngón tay theo ý muốn được, tôi có cảm tưởng tay tôi bị trói lâu ngày, nay mới được cởi trói nên tay hoạt động rất quờ quạng, tôi không thể nào điều khiển được những ngón tay.
         
          Hàng ngày vợ tôi ra nhà anh chị Tăng, Trưởng Ty Xã Hội, để nấu nướng, giặt giũ cho tôi và nghỉ ngơi. Vợ tôi cho tôi biết là anh chị ấy rất tận tình giúp đỡ mọi phương tịện để chăm sóc tôi. Vợ tôi biết đươc anh chị Tăng cũng nhờ vào sư giới thiệu của ïBS Căn ở Pleiku. Tại BMT cũng có một đớn vị của binh chủng đồn trú, nhưng trong thời gian đầu còn lạ nước lạ cái nên vợ tôi đâu biết nhờ ai ngoài nguoì được giới thiệu. Các bạn bè thuộc đơn vị B.50 ở BMT thường xuyên ra vào thăm tôi và giúp vợ tôi trong những thủ tục liên quan dến nhà binh. Cũng trong thời gian này, Ðại Tá Nu, Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật, có BS Hưng, Y sĩ Trưởng NKT tháp tùng, đã ra QYV thăm tôi và trao ADBT/Nhành Dương Liễu cùng CTBT cho tôi ngay trên giường bệnh. Tôi đã hãnh diện đưa cho vợ tôi giữ khi nàng mang thức ăn vào cho tôi trưa hôm đó.

          Qua những lần BS vào khám bệnh, tôi được biết là tôi bị thương trong một phi vụ không thám, phi cơ L.19 bị SA.7 bắn cháy. Tình trạng thương tật là phổi bị xuất huyết, trên phổi có những vết lầm tấm rướm máu, gọi nôm na là bị dập phổi. Ngoài chỗ bị thương ở ngực là nặng nhất, còn lại tay chân tôi chi bị những vết phỏng nhẹ, lông mày,ø lông mi và râu bị cháy xém, những vết phỏng không đáng kể cho môt tai nạn như vậy.
          Nhân đây, tôi dạt dào hy vọng các vị được nêu tên trên đây ( BS Bùi đình Căn, Anh chị Tăng, Tr/Úy Lê nghĩa Dũng ) hiện đang ở Mỹ xin vui lòng liên lạc với gia đình tôi, chúng tôi luôn luôn nghĩ đến quí vị với những tình cảm sâu dậm nhất.Số phone va địa chỉ E-Mail ở cuối bài này.. Hoặc có quý vị nào đọc qua trang này, xin vui lòng nhắn chuyển đến  những ân nhân của tôi được biết.
                                                
                                             @@@

          . Trước đây, khi còn Mỹ yểm trợ,quãng thời gian năm 1971 trở về trước, chứng tôi đươc tăng phái môt biệt đôi quan sát của PD110 từ Ðá Nẵng, gôm một U.17 và một L.19. Phi cơ đậu thường trực ngoài phi trường Kontum, còn phi hành đoàn và nhân viên Kỹ thuật thì sống vói chúng tôi trong doanh trại đơn vị.;do đó mỗi khi cần, chúng tôi ra phi trường là cất cánh ngay bất kể ngày đêm. Còn trực thăng để thả và rước toán thì do một Biệt Ðội của PÐ.219 cũng ở Ðà Nẵng vô, đậu tại bãi trực thăng  ngay trong đơn vịâ.Sau năm 1971, Mỹ bàn giao toàn bộ cho chúng tôi tự quản nên kế hoạch được chuyển hướng. BCH/NKT phối hợp các đơn vị Không Quân  thuộc SÐ6KQ biệt phái cho chúng tôi. Quan sát thì có PÐ.118, trực thăng thì có PÐ.235 và 229. Hàng ngày , khi có nhu cầu, hoặc Ư.17 hay L.19 bay từ Pleiku lên Kontum  để bốc chúng tôi đi không thám hay liên lạc; còn trưc thăng thì đáp thẳng bãi đáp trong trại.
Trong “Mùa hè Ðỏ lửa”, phi trường Kontum thường  xuyên bị pháo kích, thành phố bị vây hãm. Ðể tránh trở ngại vì pháo kích và khỏi mất thì giờ, đơn vị tội đặt một toán liên lạc nằm ngay trong phi trường Cù Hanh, để hàng ngày ra thẳng PD.118 cùng với pilot cất cánh thẳng từ Pleiku. Tôi và vài người bạn nữa nằm trong toán liên lạc này. Toán chúng tôi ở trong 1 barrack của Không quân Mỹ để lại, gần Câu lạc Bộ của căn cứ.

          Hàng ngày chúng tôi nhận lệnh từ BCH ở Kontum những gì phải làm trong ngày, thế là xách nón và áo lưới vô PD.118 cùng bay với pilot được cắt cử bay cho chúng tôi. Tôi thường bay với nhóm pilot trẻ như Bích, Thạch, Tiên, Ðôn ... và vài pilot cánh bay có râu như Trạng,v.v... Lâu quá tôi không  còn nhớ tên vài người nữa.
Thường thương là bay quan sát đường mòn Ðông Trường Sợn và theo dõi những hoạt dộng của CS sau HD Paris. Mỗi lần bay với Tr/U Trạng, em Lan đong đưa ở 7,8 ngàn bộ để cho “ấm chân”, tôi phải quan sát qua ống dòm mà nhìn thấy dưới dất vẫn nhỏ li ti.
          Trong những phi vụ bay với giới trẻ, Bắc Ðẩâu chịu “lạng” nhất, theo tôiá, là BÐ.65, tức N.t.Bích. rồi đến Thạch... Trong một phi vụ quan sát phía Tây Pleiku, dọc theo biên giới VN-Cam Bồt, chúng tôi thấy CS đang mỏ đường phía Ðông dãy Trường Sơn. Từ trên nhìn xuống thấy bề ngang con dường mà lạnh người. Bề rộng có thể 3 chiếc Molotova  chạy song song. Vì chúng làm từng  đoạn nên mới nhìn cứ ngỡ là chúng đang ủi đất dễ làm kho bãi vì nhìn thấy cứ một đoạn ủi trống lại dến một đoạn rừng cây. Chúng tôi bay lần theo hướng Bắc thì đoạn dường càng rõ nét hơn. Tôi nói với BÐ.65 bay thấp để tôi quan sát một đoạn nằm ẩn trong rừng cây. Thế là BÐ.65 vòng trở lại hướng Nam một quãng xa rôi bay là là ở cao độ thấp trong khi tôi đăt ông nhòm quan sát. Bỗng tôi thấy một chiếc xe ủi đất đang đậu, chưa kịp thấy là đang hoạt động hay chỉ đậu đó, cũng có thể chúng nghe thấy tiếng phi cơ “đâm gia”ø nên ngưng hoạt động để kiếm chỗ núp. Tôi nói với BÐ.65 quay trở lại làm low pass một cú nữa. Tôi giương chiếc máy ảnh Pentax với tele trong tư thế sẵn sàng bấm. Khi về trang rửa đoạn phim này, nguyên một chiêc máy ủi đất được tôi bấm gọn trong khung ảnh. Thật là “ chó ngáp “ cái ADBT/Ngôi sao Bạc của GD/NKT ân thưởng. Phần lớn là nhờ vào sự “lì lợm” của BÐ.65.
                                                
                                             @@@

          Tình hình chiến sự càng ngày càng gay..CS tấn công các trại Biệt Ðộng Quân Biên Phòng thuôc Vùng 2/CT như Ðức Cơ, Lệ Minh, va quãng giữa năm 1973, chúng  tấn công trại Bu Prang và Ðúc Lập. Tiểu khu Khánh Hòa tăng cường hai TÐ/ÐPQ nhưng không  cầm cự nổi. Ðơn vị B.15 chúng tôi được tanêg  cường cho Tiểu Khu Quảng Ðức. để thả toán trinh sát trong lòng địch. Tất cả Ðại Ðội Thám sát và BCH nhẹ lên đường đi Quảng Ðức bằng C.130, trong đó có tôi với nhiễm vụ cố hữu là Tiền không sát ( Bay tìm bãi đáp, quan sát khu vực, điều động trực thăng thả và rước toán v..v...)
          Khi đáp xuống phi trường ở Quảng Ðúc, trong lúc đơn vị đổ quân xuống phi trường, sưc gió của cánh quạt chiếc C.130 thổi bay 1 pallet bằng nhôm văng trúng bắp chân Th/Tá Hải, CHP đơn vị, làm chúng tôi phải đưa ông lên lại phi cơ trở về Kontum. Ngay phút dấu tiên xuất quân đã có chuyện không may xảy ra, không biết điềm gì đây ? Tiền hung hậu kiết hay sẽ còn hung dài dài !!.
          Thành phố Quảng  Ðức là thành phố núi đồi giống như Ðà Lạt, khí hậu cũng mát lạnh như Ðà Lạt, nhất là về đêm. Tôi nghe nói hình  như tỉnh này mới được thành lập thời Tổng Thống Diệm nên còn mới mẻ. Tỉnh lỵ cũng nhỏ thôi, dân cư thưa thớt, chủ ýếu là khai thác gỗ vì tỉnh này rừng bạt ngàn,
          Ðơn vị chúng tôi đong tại Ty Thanh Niên hay Xã Hội gì đó, tôi không nhớ
. Sau vài ngày ổn định  ăn ở, chúng tôi bắt đầu hoạt động. Tôi chỉ còn nhớ trong trí hình ảnh cuối cùng là xách nón và bản đồ đi bay không thám khu vực mục tiêu và chọn bãi đáp chuẩn bị thả toán vô. Những gì sau đó thì..........
                                                
                                             @@@

          Ðàm thoại với BÐ65 ( đuoc thu qua băng) :

          “   Nếu nói về câu chuyện anh em mình gãy cánh như thế nào thì... Cuôc đời bay bổng của mình mà, đã cầm cần lái thì có nhiều kỷ niệm lắm mà lần gãy cánh thì làm sao mà  quên dược; tôi nhớ từng chi tiết diễn tiến của phi vụ, tôi còn nhó rõ ngày giờ mình đi bay, nhớ rõ mình bị bắn lúc mấy giờ nưa kìa, tức là ngày 17/11/1973”.

          *Thật tình tôi không còn nhớ tí ghì về vụ đó hết. Tôi chỉ nghe bà xã kể lại cũng như tôi đã hỏi người Toán trưởng dẫn toán đi tìm chỗ phi  cơ rớt vào sáng hôm sau thì hắn nói toán dược lệnh mang poncho để hốt xác tôi về. chứ không nghĩ là tôi còn sống”

          “ Ðúng rồi, tôi nói là anh chết rồi vì khi bị bắn rớt xuống thì....Mà nói thì cũng nói cho có đầu đuôi. Nói thiệt với anh là em nhớ hết. nhớ từ đầu tới cuối. Hôm đó không phải là phi vụ của em bay với anh đâu mà là bay cho Ðoàn Công Tác 75 ,bay vời Ð/Úy Nhân, anh biết anh Nhân chứ gì , Tờ mờ sáng em đi câu với ông Phó, T/Tá Phó CHP ÐCT75. Sáng hôm đó ông Phó hỏi em : Mày có rảnh không, đi câu vói tao chơi” Trối hôm đó mây broken nên em đi câu trong thời gian chờ đợi.Xong trở về em xách nón đi bay với anh Nhân. Trước khi đi, anh Nhân chụp với em vài tấm hình, có cảnh ôm cánh máy bay, mấy tấm hình này em đốt mẹ nó rồi. Sau đó em cất cánh nhưng mây broken nghĩa là mây từng dam từng đám một đó mà, nên em đáp để chờ thì bên B.15 gọi qua báo sắp đi bay tìm bãi. Một lúc sau anh Thọ xách nón qua nói với em : Thôi Bích đi bay với tao đi ! Anh còn nhớ thằng gì đen đen ở Ð.75 không, hình  như là Tâm đen đó. –Ờ, Ở ! Tâm Ðen, hơi móm móm, nói với em :” Bích ơi Bích,đ.m  mày đưa đồng hồ mày cho tao,  đưa thẻ lương của mày để tao lãnh luôn “,  thì mình có mê tín dị đoan gì đâu nên em nói :” Ðây nè, mày lấy thì lấy rồi lát nữa ôm xác tao về”  giỡn giõn chơi vậy mà, hôm nào anh hỏi thằng Tâm coi Cười cười..Em còn nhớ em là Bắc Dẩu 65 mà. Lúc đó hai anh em đi, mình đi sang Campuchia để kiếm target gì đó để cho đám đệ tử anh nhảy, thì lúc đó trời bị mây mù hếi rồi mà chưa kiếm đuoc target;  mình bay cũng dược tiếng mấy rồi, nên mình quay trở về. Mình đang bay ở trên mây, vừa mới lú đầu ra thì thấy một viên đạn bay lên, lúc đó mình đang ở ngay ngã ba Bu Prang đó, cục lửa bay lên giống như mình bắn viên rocket xuống vậy đó. em gọi máy:” Sierra, Sierra ! BÐ bị SA.7 bắn “ ; vừa mới nói một câu thì nghe dến PHÌNH một phát, không chưa nghe tiếng phình, thì thấy tống ga đến ào một phát, ai ngờ ổng ở dăng sau tống tay ga, thì tâm lý mà em cũng chụp tống ga luôn... cươi ồn ào,”thì thêm nhiệt cho nó mau tơi mà “..., đúng ra là mình phải break hay mình đap cho cánh nó chuồi xuống để tránh khỏi tầm nò ai ngờ lại tống thêm. Cái đó em có học cách tránh SA.7 rồi ma...ø cười dòn ... :” Thì pilot có học chứ tôi có học đâu mà biết “... thế là nghe ầm một phát, trời ơi nó cháy, cháy từ trên xuống dưới; chỉ kịp thò hai tay nhìn lên cái đồng hồ xăng, quán tính của mình mà, đưa hai tay lên khóa cụp cụp hai bình xăng. Dù cũng bị cháy luôn mà, đâu có bung đươc, thì ông Thọ ổng ngồi sau đó ổng cứ nắm seat belt của tôi, ảnh sợ tôi rớt ra ngoài tại lúc đó tôi thò cái tay đệ mở cửa emergency, nè bị gãy ngón tay nè, nó kẹt cái ngón tay, dính mẹ nó trong đó luôn; thế là thôi, nó nóng quá trời, mới quay lại thì ổng ngồi đó một mình, chun ra không dược, lửa cháy phỏng hết. Bây giờ mà cởi bộ đồ ra thì thấy, phỏng từ mình xuống hai chân luôn. tay gì cũng phỏng hết, đại khái vậy đó. Tôi mới quay đầu về Quảng Dức thì giữa đường đó coi như tàu không còn hoạt dộng nữa, đụng đọt cây, tôi không biết nó cao như thế nào nữa,  nó rớt một phát một thì cái đầu mình ngồi thì nó nằm đó đó, còn cái đít phi cơ của ảnh thì đằng đó đó, cách xa mấy chục thước...Ðứt không ?...Ðứt đôi ra luôn ! Cái đầu ra một bên mà cái dít ra một bên với lại nó cháy nó nóng rồi khi đụng đọt cây nó tách đôi ra rớt cái bịch xuống, thì bắt đầu tôi mới chạy lại chỗ anh Thọ thì thấy ảnh ngồi cái dầu gục qua một bên cần lái tôi mới la :” Chạy đi anh Thọ, chạy đi anh Thọ” kêu mấy lần mà không thấy trả lời thỉ tưởng ảnh chết rồi. chắc chắn chết rồi chứ gì nữa; còn có một mình tôi sợ quá mới quay đầu chạy, cắm dầu cắm cổ chạy, chạy trong rừng từ một giờ trưa đến 4,5 giờ chiều mới ra được khoảng trống... Chắc chạy đại mà đâu nhắm hướng gì hả... Ðâu nhắm hướng gì đâu, cứ theo ánh mặt trời mà chạy về hướng Quảng Ðức, hoàn toàn không định được chính xác, tay cầm khẩu súng mà chạy bừa...lúc đóø anh coi như `la øbị mất tinh thần...Ừ, coi như là cái quán tính của mình mà, cái bản năng sinh tồn của mình để cứu mình thôi. Nếu mà ảnh còn sống thì hai thằng chạy vận ổn hơn chư mà bây giờ chỉ có mình mình, chứ ảnh chết ngăt rồi làm sao bây giờù. bắt đầu cứ cắm đầu cắm cổ chạy Chạy trong rừng xách  khẩu súng , tôi kê súng vào đầu tự tử bắn, tôi nghĩ VC nó mà bắt được thì cũng bị bắn. Bắn cái đùng một phát,  rồi biết làm sao không,ai ngờ bắn ngay cái helmet của mình... Ðã nổ rồi đó hả...Nổ rồi. mà anh biết không trên trời lúc đó trực thăng với L.19 quần trên đầu để bốc mình về mà rừng thì nó che hết đâu có thấy gì đâu; P.38 mà bắn hết đạn luôn...Ủa ! Flare anh đâu ?...Flare nó bị cháy kể cả trái khói màu đỏ và màu lân tinh, nó bị chảy hết; may mà nhờ còn hai tấm panô. Rồi tự nhiên chạy ra đồng trống, bắt đầu nằm chờ cái thấy một chiếc L.19 đang quần tôi mới trải tấm panô trắng dài ra vầy nè, theo hình chữ L rồi cái nó xuống bốc mình về, miệng tôi cứ la lên :” Trời ới Ông Thọ ổng giết tôi rồi “ rồi có người hỏi :”Tại sao ổng giết ?” thì nghĩ là ổng chết rồi; rồi đưa tôi về Ban Mê Thuột, lúc đó là Phi Ðoàn lên, rôi ông gì đó... À Ông Minh Ðen ( TT/CHT Chiến Ðoàn 2 XK) lên, rồi ông Phó cũng lên nữa, hỏi tôi :” Rồi bây giờ thằng Thọ đâu” “ Ổng chết rồi còn đâu !” “ Chết ở đâu ?”  “Thì ổng ngồi trong cái đuôi phi cơ đó ! Cái đầu phi cơ tôi với cái đuôi cách  nhau mấy chục thước đó, mấy anh xuống đó là thấy ổng nằm trong đó, ổng chết rồi ! “ Nếu mà ổng còn sống thì hai thằng chạy với nhau cho sướng chứ. mình lúc đó cũng quáng rồi. Bây giờ mấy anh có đi bốc thì cứ tới chỗ cái đầu phi cơ tôi đó, cách mấy chục thước là cái đuôi có ổng nằm chết tại dó”  Rồi mấy ổng mới nói :” Thôi rồi ! Nếu nó chết rồi thì dể ngày mai đi lấy xác nó” rồi ngày hôm sau kêu cái toán Biệt Kích lên là mang poncho, mang đồ để đi lấy xác anh...Ừ ! Coi như là đi hốt  xác tao chứ gì !... Ờ ! thì hốt xác anh chứ gì nữa..
Coi như tôi nằm đêm hôm đó ở BMT, mấy ông bên Phi Doàn với mấy ông bên Lôi Hổ vô thăm viếng đủ thứ hết, mình cũng kể lại sơ sơ vụ đó. Nằm đó sáng mai ai ngờ  trưa mai thì thấy ảnh nằm kế bên. Thằng nằm bên đây thì băng đầy người còn ổng thì băng mặt kín mít chỉ còn ló hai con mắt ra thôi. Tôi hỏi :” Anh Thọ đó hả ?
““Ờ ! Tao đây” Lúc đó mới thấy hai thằng còn sống. Xong rồi tôi về nằm trên Pleiku, tôi bị thương tôi còn nằm đó, lúc đó anh khỏe rồi anh còn đến thăm tôi một lần nữa, thăm tại QYV Pleiku nữa,  đó là nhớ từ ngày giờ nữa... “Hông mà phải công nhận anh Bích này ảnh nhớ dai thiệt, cái sự kiện đó chắc là nhớ để đời luôn.” .Cái đó  làm sao mà quên được anh Ninh ! “...“ Anh không nhớ gì hết thành ra anh không có cái nỗi sợ hãi, không có nỗi ám ảnh, còn thằng Bích nó nhớ. Ê Bích ! Anh nghe kể lại là Bích nằm trên giường cứ bị ám ảnh bỏi cơn cháy đó phải không “... “ Ờ ! Mấy người cứ hỏi sao tôi cứ la :” Ðùng ! Nó kìa... Ðùng ! Nó kìa, Cháy rồi cháy rồi “ ,,, Ai cũng hỏi tại sao ? thì mình nghe tiếng nổ rồi thấy lửa cháy cứ như vậy thôi. Lúc đó mình còn nghe rõ ràng mấy ổng nói một câu, Ông Luận đó, anh còn nhớ Ông Luận không? .. Nhớ chứ, ộng la SQ Hành Quân mà.... Ờ, ổng nói nó chết rồi, nó mà tỉnh như vầy là sắp chết rồi đó’...mình thì đang mê sảng, cừ nghe tiếng nổ ÐÙNG rồi thấy lủa cháy. Mấy người vô thăm, hình như bạn bè anh ở BMT đớ, vô thăm ào ào. Tôi nghe có người nói thôi dể cho tụi nó nghỉ, người thì hỏi còn trong đầu tôi thì cứ nghĩ :”chết ròi, chết rồi “... lúc nằm ở Plieku đó hả ?...hông, còn nằm ở BMT.,Tôi nằm ngày hôm trước thì sáng hôm sau anh về nằm ngay cái giường kế bên, hai thằng nằm hai cái giường kề bên nhau...ngay hôm dó đưa Bích về Pleiku hả...ngày hôm sau anh về thì ngày hôm sau nữa không biết ai đưa tôi về Pleiku, vậy chắc anh cũng về Pleiku luôn hả ?...không, tôi còn nằm lại BMT, hôm sau bà xã mới lên... đó ! anh hỏi chỉ di không biết chị còn nhớ không, ngay cái cửa ra vào đó, tôi nằm giường bìa, anh nằm giuờøng thứ hai. Trong thời gian nằm ở Pleiku, mình nhìn thấy hoa đâu tùm lum, cắm dầu giường, cắm lung tung, toàn hoa không... Vậy là thấy hoa chứ không phải courone hả ?...cười ...Nói thiệt với chị, cái này không  phải là nịnh nha ! Tới phòng ảnh, bước vô đầu tiên là thấy cái hình của chị trẽn bàn, hình bán thân mặc áo dài. Tôi nói sao cha này gương mẫu quá vậy, dân Lôi Hổ với dân phi công gặp nhau mà sao cha này hiền quá vậy... hình nào, anh Thọ nhiều hình của nhiều người lắm nha, anh Bích nhớ kỹ lại đi ...Thấy chưa, anh là ngoan nhất nước mà...Mà hồi đó ảnh đâu có uống bia nhiều như bây giờ.. Anh Bích thấy không ông anh tôi là dân Lôi Hổ mà còn phải sơ Sư Tử nữa mà, Sư Tử dữ hơn Lôi Hổ là cái chắc... Nói thiệt với chị nghe, ổng hiền hơn mấy thằng bạn  ở chung nhiều. Mấy tay kia đi nhậu tối ngày, xách xe la cà mấy chỗ tắm hơi lầy lội, bar biếc tùm lum...Thật vậy đó hả anh Bích...Thấy chưa, ngày hôm nay có người nói lên sự thật dùm tôi...Không ! Cái do nói thật mà... Vậy mà hồi đó tới giơ tôi cứ nghĩ anh Thọ ghê gớm lắm đó chứ... Thấy chưa, anh ngoan lắm đó chứ, đừng có tưởng...Ông biết thằng Thọ bao lâu rồi ?...Lâu rồi, từ năm 1972, trước Mùa hè đỏ lửa nũa kìa....Có sống chung nhiều không ? Bay thì nhiều, còn lâu lâu thì xuống phòng rủ di uống cà phê hay đánh bi da thôi....Này Bích ! Hình như sau này cậu ve àbay đâu ở vùng bốn rồi bị rớt nữa phải không ?...Ừ ! Về bay ở Cần Thơ, ba lần gãy cánh nữa. đạn bắn xuyên chong chóng mà không chết. Rồi trước khi đứt phim, bay từ Cần Thơ qua Thái Lan giữa đường hết xăng phải dáp khẩn cấp mà bom không nổ. Kỳ do là leo lên chiếc A,37 chung với thằng bạn. Coi như bốn trái bom bấm chỉ rớt hai trái còn hai trái không rớt. Kỳ đó bay với ông Thiếu Tá Lộc, ông này phải nói là bậc sư rồi., nghĩa là cái phi trường tại chợ khong đủ khả năng hạ cánh, ổng chơi kiểu stall làm cho phi cơ rớt xuống rồi bấm canopy cho giảm tốc độ lại, phi cơ vừa dừng lại là cái dầu vừa lủi  ra ruộng luôn. Năm người trên dớ lóp ngóp chui ra thì có 1 ông Tr/Úy của QYV Long Xuyên ra bốc về. Hắn nói :” Thôi bây giờ:nước mất rồi, mấy ông có muốn thì đi theo tôi”.,lúc đó tinh thần mình bỉ khủng koảng rồi, tôi đi theo mấy thằng bạn ra Phú Quốc, vừa ra dến Hà Tiên thì bị tụi nó đánh dạt rồi chạy về, súng ống vứt đi luôn rồi đón xe đò về Saigon ...Hồi ở tù anh có gặp cậu Bích này ở Trung Tâm An Dưỡng Biên Hòa, hắn xoay trần ra để đánh Volley, hai chân thấy lốm dốm loang lổ vì phỏng thành ra nó có hỗn danh là “Bích chó vá”...cười...Ủa ? Hồi xưa anh với anh Bích có cải tạo chung với nhau hả ?...Có thời gian về Suối Máu thì gặp nhau nhưng khác B, đánh Volley thì gặp nhau. À ! Tôi có gặp thằng” Huệ Khô Mực “ nữa, anh có nhớ thằng Huệ khong ?... Nghe tên thì quen quen nhưng không nhớ mặt, lâu quá rồi. Tôi chỉ gặp thằng Thạch ở Suối Máu, rồi sau về Z.30C thì gặp thằng Tiên...Tiên nào ?..Tiên di bay mà còn xách theo lon guigoz cơm gạo lức muối mè dớ... À Trần văn Mộng Tiên..Hồi đó tụi bạn nó nói tôi :” Mày Không Quân mà sao   bày đặt mặc đổ Lôi Hổ nưa” , tại người tôi đầy bông không’ Ðúng ra phi vụ biệt phái này là của thằng” Hùng Ma cô” chứ không phải em đâu... Phải Hùng ở PD.110 ngoài Ðà Nẳng không ?...Chứ còn ai nữa, Bà già nó nói với em một câu “ Bích ! Bích ! Thôi con ở đây lâu rồi, đường xá con cũng rành rồi mà thằng Hùng thì mới về. Thôi chuyến này con bay thế cho nó rồi chuyến sau nó đi. Má sẽ cho con tiền để mà lên đó xài” Bả cho tôi 5000$. Hồi đó 5o00 là lờn rồi, đóng được môt tháng tiền cơm là dư sức rồi. kỳ đó tôi bay với Nguyễn minh Nguyệt, anh còn nhớ “chị Nguyệt observe” không ? Cha này nhiều bồ lăm nên ít chịu di  bay mà về bay với Lôi Hổ thì sướng thấy mẹ, chả cứ đi chơi còn mình thì cày chết mẹ, an ngủ dưới biệt đội luôn, nằm ngủ chung phòng với Ông phó, ông Nhân đó ! Xuồng đươc hai ngày thì mình bị bắn rớt. Bị quãng 1 giờ trưa thì 5 giờ bốc tôi về, còn anh thì tới trưa hôm sau... Theo tôi còn nhớ thì Toán xuống bôc tôi kể rằng “ Thấy tôi ngồi kẹt trong máy báy, khi Toán tới gần, biết tôi còn sống thì báo về là Tango còn sống, ai nấy đều mừng rỡ, còn tôi khi thấy có người đến thì có vẻ hốt hoảng, chắc tưởng là VC đến thịt mình. Rồi tôi đòi uống nước. Siêu thiệt ! Ngồi cả đêm trong phi cơ mà lại ở giưa rừng mà  không chết, đúng ø tên tôi là tên tiền định .. May thiệt... Anh thấy cái đó chỉ có trời đỡ chứ ai mà đỡ dược...Ðúng vậy, chỉ có trời dở thôi, do số mạng chứ không cách nào mà thoát dược hết... Hông !  Tôi thấy qua sự kiện đó mà anh và anh Thọ tôi đây mà còn sống dược thì chắc nhớ đời luôn chứ làm sao mà quên được...Nhớ chứ ! Do đó tiếng nói và hình dáng của ảnh không thể nào quên được hết. Lần trước ảnh về tìm mình nhưng không gặp, lần này ảnh về ảnh gọi phone, giả dạng Võ Ý là xếp mình. Nói anh Ninh nghe nè, bữa đó mình đi nhậu, tới chừng về nghe mấy dứa con nói là có bác Ý gọi, thì ông Võ Ý là Phi Ðoàn Trưởng mà, hôm sau ảnh gọi điện thoại nói “ Phải Bích đó không?” tôi nói “Dạ Bich đây! Xin lỗi ai đầu máy đó ạ ?” “ Thầy Võ Ý đây!” “ Không phải, cha nào đó chứ không phải Võ Ý” Vậy chú anh biết tôi là ai không? “Anh Thọ chứ ai. Nguyễn hữu Thọ phải không ?... Tài thật ! Mười mấy năm rồi mà nó còn nhận ra giọng nói ...Thì anh đì Mỹ năm 1993 chứ đâu, anh còn gặp tụi này chạy xe thồ ở Xa cảng Miền Ðông mà. Anh hay mặc cái quần sọt trắng, chở vải qua nhà thờ Fatima, nhớ sao không nhớ... Ờ ! Gặp luôn Ngô Ký, Trần Hãn của 110 cũng chạy xe thồ ở đớ luôn. Tụi nó lập một Biệt Ðội  ở Bến xe Miền Ðông mà...Thành ra nhiều kỷ niệm với ông này lắm. Nói cho đúng ra thì tụi này hồi đó còn trẻ mà, hào khí mình còn cao, lúc nào bay cũng liều mạng, bay là bay thấp chơi chứ không bay lang thang trên cao đâu.Cần là nhào xuống... Ủa ? Như vậy là anh  bay với anh Thọ tôi phải nhiều lần lắm mới quen giọng nói ảnh đước chớ.
Nhiều lắm.  Mấy ông này khoái bay với đám trẻ tụi tôi lắm. Liều mạng mà... Mày biết không Thấu, kỳ tao đi  với thằng em này qua Cam Bốt, thấy tụi nó dang làm đường, tao kêu thằng em này xà xuống coi, thấy bóng một chiếc xe ủi đất. Tao kêu nó vòng lại bay thật thấp, tao đưa máy ảnh lên canh chụp. Về rửa ra thấy y chang nguyên một chiếc xe ủi dất,. Kỳ đó tao bợ cái ngôi sao bạc ngon lành... Anh Thọ còn nhớ không ? Kỳ mình bay trên sông Dabla, thây hai con trâu rừng, anh kêu nhào xuống coi. tôi làm cái ào, ba thằng đang ở trên ghe thấy mình nhào xuống tụi nó nhảy ào xuống sông. Hồi còn trẻ mình sống vui thiệt. Tôi năm nay 53 tuổi, nhỏ hơn mấy anh này chừng 4, 5 tuổi, lúc đó mình còn trẻ nên dau có ngán... Anh Bích này bằng tuổi em, tuổi con mèo... Anh Bích biết không, tui này ở nhà cũng thường nhắc tới anh Bích. Rồi hồi tụi này qua bên anh Ý, anh ấy cũng nhắc tới anh hoài, không biết ở đây anh có nhảy mũi không ? ... Khi liên lạc được với anh ý, tụi này thường liên lạc trên phone và E-Mail. Cái E-Mail đầu tiên sau khi anh Ý bắt được liên lạc gởi cho tôi , anh ấy viết “ Biệt Kich B15  Xá gì SA.7”... Ờ ! Lúc đớ tôi còn Thiếu Úy, ảnh  tặng cho cái hộp quẹt Ronson có khắc “ Th/Úy N.t.B, Xá gì SA.7”. Tôi bỏ dau mất mẹ nó rồi, tiếc ghê... Hôm tôi qua gặp ảnh, mới thấy mặt tôi ảnh nói “ Tưởng ông cụp xương sống rồi, làm sao có con duoc nữa. Tôi chỉ thằng con di theo nói “ Ðó anh thấy không, 3 đúa lận”. À ! Còn ông từ hồi đó tới giờ có bị đau gì không?... Hồi trước cũng hay bị đau, bây giờ thì hết rồi. đ..m... rớt xuống từ trên ngọn cây cao mười mấy thước, chịu gì nổi. Không chết là may...Hồi tụi này qua St Louis dư đám cưới con anh gì đó anh Thọ... Anh Lịch... À ! Anh Lịch ở 110., anh ấy là Thiếu tá rồi, đàn anh của Trần Hãn nữa mà...

Cách đây hai năm, 2001, tôi được biết là BÐ.65 còn kẹt lại VN, không qua Mỹ được vì “thiếu tháng”. tin nảy làm tôi sửng sốt vì ngay từ hồi con gặp nhau ở VN, tôi được biết BD.65, Trần Hãn, Dương viết Ðang đang chuẩn bị đi theo diện H.O. Mọi thủ tục đã xong xuôi cũng như tôi, chỉ chờ phỏng vấn là bay. Người cho tôi tin này cũng cho tôi địa chỉ để về tìm gặp BÐ.65.. Tròng lần về thăm gia đình này, tôi theo sơ đồ được cho đi tìm nhưng trớt quớt vì theo hướng dẫn thì qua khỏi khu dân cư mới cất trên đường ÐBL thì đi vào con đường nhỏ ( không cho tên đường). Mà vấn dề xây cất ở Saigon dạo sau này thì cứ như nấm mọc sau cơn mưa, nhà cao tầng xây tùm lum, đi hết cả con đường đều thấy toàn nhà mới xây không nên chả biết con đường nhỏ nào mà rẽ vô kiếm.
Hai năm sau đó, nhân dịp về lại VN để tổ chưc lễ cưới cho cháu lớn, và cũng có số phone của BÐ.65 do anh Võ Ý cho, nên tôi chắc ăn là sẽ gặp. Lại còn được anh Ý báo cho biết là anh H. của 118 cũng còn kẹt lại Saigon, dang chạy xe ôm. Thật tình  mà nói là tôi không nhớ anh H, này vì đâu có bay chung lần nào với ảnh. Mà theo lời anh Ýù thì anh H. cũng ít bay, dân staff của PÐ mà. Nhưng tôi nghĩ dù sao cũng là gà nhà, anh em cả chứ ai đâu mà ngại ngùng, trước lạ thì rồi sẽ quen. Phe ta cả mà. Tôi hỏi thăm  xem có còn BÐ nào nữa không để gom bi luôn. Anh Ýù nói  chắc còn nhưng ở rải rác các tỉnh.

Vừa về đến gia đình, việc đầu tiên là bốc máy gọi cho BD,65 nhưng mấy cháu nói là bố xỉn rồi nên còn ngủ. Tôi nhắn lại là “ Bố có dậy thì nói là có Bác Võ Ý mới ở Mỹ về “. Chờ đến tối tôi gọi lại., sau khi nói vài câu, BÐ.65 hỏi “ Phải anh Thọ không ? Nguyễn hữu Thọ đúng không ?” Tài thiệt ! Giọng nói của tôi  trên vô tuyến lúc còn bay với nhau cũng đã 30 năm qua rồi, vậy mà hắn vẫn còn nhận ra sau bao nhiêu biến đổi, vật đổi sao dời. Thằng em này có trí nhớ tốt thật. Thế là tôi nhắn BÐ.65 mời luôn anh LTH  đi nhậu một tăng để mừng ngày tái ngộ. Giờ hẹn là chiều hôm sau, điểm hẹn là trước chợ Bà Chiểu.
Ninh, em  tôi, chở tôi đên điểm hẹn gặp anh H và BÐ.65. Với anh H thì tôi không nhận ra là điều dĩ nhiên vì tôi đâu có biết mặt anh ấy trước đây như thế nào, còn BÐ,65 thì cũng vẫn thế, vẫn gầy gò như hình ảnh cách đây 10 năm, trước khi tôi đi Mỹ và cũng không khác gì nhiều so với lần tôi gặp đầu tiên cách đây 21 năm.(1982). Ngày đó tôi vừa ra tù sau khi gỡ 6 cuốn rưỡi lịch, tôi gặp BÐ.65 đang nghễu nghện trên chiếc xích lô trên đường Trần quang Khải. Anh em kéo nhau vào cà phê vĩa hè ngồi  thăm hỏi nhau. Tôi nói vói hắn “ Chỉ số của ông là lái loại phi cơ bánh đuôi, bây giờ xuống đất cũng lái bánh đuôi tiếp tục hả ?.” Cả hai thằng đều rách nên không có được ly rượu để đấu láo với nhau . Lần gặp gỡ này thì rượu thịt ê hề, chuyện trò với nhau rôm rả. Còn nỗi vui nào hơn khi gặp lại bạn “ đồng sinh đồng tử” với nhau. Tôi nói đùa “ Mặc dù tôi là Lôi Hổ, đi bay với Không Quân, nhưng chơi theo gu Hải Quân, nghĩa là thà chết chứ không bỏ máy bay khi lâm nạn” . Bao nhiêu chuyện xưa tích cũ đều được gợi nhắc, từng sự kiện, từng nhân vật mà chúng tôi dều quen biết, KQ cũng như LH, kẻ ở người đi,  từng kỷ niệm đều dược tuôn trào . Khi chia tay, tôi chuyển lời mời đặt cọc trước là hai người  bằng mọi giá  phải hiện diện trong ngày tiệc vui của gia đình, bởi vỉ theo dự tính của tôi thì đây là một dip may độc nhất để hội tụ bạn bè : bạn nối khố từ thuở đi học còn kẹt lại VN, bạn tù, bạn “ sống chết có nhau”... Tôi nghĩ  chỉ có bạn như thế mới thật sư có tình với nhau và tôi mong đợi mãi ngày này. Trước đó vài tháng tôi ngỡ là kế hoạch này không thưc hiện đươc vì lý do trận chiến Iraq, con tôi sẽ bị gọi đi ( cháu ở  Marines Corp ) rồi tiếp đến bệnh SARS. Trong bưa tiêc cưới của con tôi, tôi cảm thấy thật mãn nguyện vì gặp gỡ được đông đủ bạn bè, đủ mọi thành phần như đã viết ở trên. Chỉ có điều đáng buồn là ngoài lần găp gỡ dầu tiên, những lần tôi và BÐ.65 gặp nhau sau này đều không có anh H. Theo lời BÐ.65 thì anh ấy ngại vì sợ bị CA gọi lên gọi xuống rồi chụp mũ lá tiếp xúc với nhau có ý gì. BÐ.65 nói tại anh ấy là “ bò tứ “ù nên dễ bị làm phiền hơn BÐ.65, mình là dân chơi đì tới đâu cũng chơi hết, nào ngán !!
Ðược hỏi lý do vì trở ngại nào mà không đuoc đi Mỹ, BÐ.65 nói :
Tôi chỉ thiếu có một tháng mà phái doàn từ chối Cũng tại tôi ỷ y  mình là thứ thiệt thì đâu có gì mà phải chạy chọt, hơn nưa còn lo kiếm com nên không nghĩ tới. Ðúng là con người ta đều có số mà số tôi là số không dược xuất ngoại. Hồi đi học Nha Trang, ai cụng đi du học ở Mỹ, đến khóa tôi thì tài khóa đi học bay ở Mỹ không có chứ điểm thi ESL của tôi cao lắm à ! Rồi tới khi đút phim, đeo theo A.37 đi Thái Lan thì máy bay hết xăng dọc đường, rồi đến HO thì thiếu tháng. Ðúng là số ăn mày”
-    Ừ ! Giày dép mà còn có số nũa nói gì con người. Hồi đó mấy cái lẻ tẻ đó chạy lo đâu có khó khăn gì. Có thằng trốn trại mà còn xin duoc giấy ra trại nưã là “thiếu tháng”
             -     Lucù đó chỉ cần làm lùi lại là tôi bị bắt trước đó một tháng là xong ngay.
-      Thôi ! Âu cũng là số mạng.!!

Với ý định là lần này về găp đươc BÐ.65, tôi sẽ bảo hắn tường thuật lại những chi tiêt của lần gãy cánh năm xưa, và tôi sẽ gom góp hết mọi chi tiết thu nhặt đươc qua những nhân chứng để đức kết lại thành một câu chuyện liên tục, coi đó như một kỷ niêm khó quên trong đời,; do đó trong một lần hẹn nhau để thưc hiện ý định này, tôi đưa theo bà xã, một thằng bạn và chú em vẫn đi cùng với tôi trong những lần gặp gỡ trước và một cái cassette recorder. Bên bàn tiệc trong một góc vắng, chúng tôi vừa nhậu vừa chuyện trò và đi dần vào câu chuyện......
                                    
                                        @@@
                               
E-Mail cua Pilot BÐ.219 tai Quảng Ðức

From: .....
Date : Sun, 1 Apr 2001 13:37:08 EDT
Subject : Hi anh Con
 
HI ANH THO,

Xin xac nhan la biet doi 219 biet phai cho LOI HO tha toan o QUANG DUC 1973
toi va mot so pilot nua da tham du phi vu tim cuu ANH va pilot cua pd 118
Sau day toi xin ke mot vai chi tiet de anh xac nhan lai co dung khong.
Toi va anh Sam moi lam xong thu tuc ban giao thi co ong dai uy LOI HO truong phong hanh quan den gap toi va cho biet chiec L.19 cua anh di tim bai bi SA ban roi gan bien doi MIEN va khong xa duong mon ho chi minh. Toi lien chon mot hop doan di PICK UP gap gom co toi lam C&C, THIEU UY TIEU GUN.1 THIEU UY LAP GUN.2 va 2 SLICKS, khong nho ten pilot. Chung toi len vung bay gan can xang nhung khong tim duoc ai dinh ve lai QUANH DUC vi phai refuel va troi sap toi. Nhung that may man gun.1 va gun.2  bao cao thay co nguoi, toi cho SLICK xuong boc thi ra la anh linh dia phuong quan va sau la gun.1  thay co 1 nguoi nua tu trong rung chay ra. Lan nay boc len thi toi moi biet la pilot cua 118, toi lien cho hoi pilot ve cho rot cua chiec L19.  Anh pilot sau khi len truc thang  thi bi ngat xiu vi shock va quan ao bi chay. Ong dai uy LOI HO bao chung toi ve  va se tiep tuc vao ngay hom sau. Sang hom sau chung toi len vung. co them toan LOI HO de tiem xac anh ve, ai cung nghi  la anh chac bi chay trong may bay. Toi ra linh cho anh em GUNSHIP bay that thap de quat la cay rung hi vong la se tim duoc mot vai dau vet. Sau cung toi phat hien ra 1 phan canh cua chiec L19 va cho toan xuong bai. Khi chung toi nghe toan bao cao la tim duoc TANGO va con song. Tat ca anh em co mat trong hop doan deu mung ro va cho do la mot phep la.
Mot vai dong tam su ve mot thoi da qua, mot thoi ngang doc tren que huong yeu dau. Toi cung xin cam on anh con nho toi  anh em 219. ( Sao y )

          Pham Sâm cũng là bạn tôi hồi chưa đi lính. Hịnh như năm 1965, hắn đi Không Quân Tôi cũng chỉ biết có thế chứ cũng chả biết nó bay loại gì, Phi Ðòàn nào... Mãi đến khi tôi ra trường và về Sở Liên Lạc/ NKT, thuyên chuyển ra đơn vị B.15 ở Kontum thì mới gặp lại. Lúc đó nó đã là Trung Úy, bay cho PÐ.219, và biệt phái cho Lôi Hổ ở Kontum. Tôi cũng xin mở ngoăc ở đây để nói sơ qua về PÐ.219. và công viêc của tôi.
          Ðồn trú tại Ðá Nẵng nhưng thường thường  biệt phái hành quân cho Kontum và Ban Mê Thuột là nơi có đơn vị chúng tôi. Thời gian biệt phái là 2 tuần và cứ luân phiên nhau đi  các nơi. Nhiệm vụ là thả và rước toán Lôi Hổ khi di Hành quân. PÐ 219 là phi đoàn cuối cùng còn bay H.34 và cũng chỉ  để chuyên trị cho Lôi Hổ, do đó tình cảm của chúng tôi và các anh em BÐ.219 rất là khắng khít vì cùng xông pha vào hòn tên mũi đạn. Trong suốt 13 chuyến hành quân nhảy toán kể từ ngày ra trường,  cũng có khi gặp chính bạn mình thả hay rước toán của mình.  Mỗi lần nghe giọng nói trên vô tuyến lá thấy vui ngay, nhất là trong những lấn triệt xuất , bởi vì chuyến về luôn luôn vui và cảm thấy phấn khởi hơn chuyến đi,sau đó là cùng nhau đi nhậu mút mùa. Mãi đến cuối năm 1971 tôi mới chuyenå qua tham mưu với nhiệm vụ là SQ Tiền không Sát, chuyên lo việc thả và rước toán, quan sát mục tiêu hay liên lạc với toán đang hành quân ở dưới đất. Khi toán bị đụng thì hướng dẫn khu trưc yểm trợ cho toán. Trước mùa hè đỏ lửa, chúng tôi bay với Không Quân Mỹ bằng phi cơ O.2 hay OV10. Hai phi doàn này cũng nằm ở Pleiku, hàng ngày bay lên Kontum để bôc chúng tôi khi có nhu cầu. Pilot dĩ nhiên là người Mỹ, làm theo những yêu cầu của chúng tôi tùy theo tưng nhiệm vụ. Tôi chỉ là người trung gian để chuyển những yêu cầu của công tác để pilot thi hành theo chuyên môn của họ. Nếu có nhu cầu yểm trợ thì chình họ liên lạc xin phi vụ khu trục và hướng dẫn khu trục đánh đấm theo chuyên môn của một phi công quan sát Mỹ, còn tôi giữ liên lạc với toán và chuyển  lại nhưng yêu cầu của toán dể pilot điều chỉnh oanh kích. Tóm lại tôi là Bộ Binh nhưng làm  công việc của một Quan sát viên của KQ. mà không qua trường lớp nào cả, lâu dần rồi nghề dạy nghề..

          Ngày tôi bị rớt cũng là ngày Phạm Sâm hết thời hạn tăng phái ở Quảng Ðúc, bàn giao lại cho Biệt Ðội của anh Còn; cũng theo lời Phạm Sâm kể lại thì trước khi về, hắn còn nhắn lại để “gởi gấm” :” Bạn tao đó mày, ráng lo dùm” Và cũng nhờ Phạm Sâm mà sau này khi qua Mỹ , bắt liên lạc được với hăn tôi mới biết được dịa chỉ E-Mail và số phone của anh Còn vì anh Còn qua đây từ năm 1975. Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa biết được dung nhan của người đẵ pick up tôi, chỉ biết đươc anh ấy và gia đình đang ở Louisiana.

                                                @@@
         
          Ðôi dòng suy gẫm
         

          Hồi tưởng lại những ngày đầu bị thương phải nằm ở QYV/BMT, tôi nghĩ tình trạng  phổi bị dập là vì khi phi cơ rớt xuống đất, sức va chạm khiến tôi bị đập ngưc vào cần lái nhưng nhò trong áo lưới có để máy truyền tin cấp cưu PRC.9 để liên lạc với phi cơ khi hữu sự, nhờ đó đã làm giảm sức` đập của cần lái vào ngưc; nếu không thì tôi đã chết vì thủng ngực. Còn tình trạng tay tôi quờ quạng không điều khiển duơc theo ý muốn thì tôi nghĩ là do thế ngồi như thế nào đó khiến tay bị kẹt nên tê liệt luôn. Ngồi như thế gần 24 tiếng đồng hồ thì tay nào mà chịu nổi.
          Sau khi hội đủ những dữ kiện, thật tình tôi không thể tưởng tượng ra dược tình trạng của tôi lúc ấy như thế nào ? Thật là khủng khiếp !!! Phi cơ bị cháy mà lại đang trên đường rớt xuống đất, rồi khi rớt xuống bị cần lái đập vô ngực đến độ bất tỉnh, nằm kẹt lại trong thân sau của phi cơ suôt đêm giũa rừng trong tình trạng không nhúc nhích được, rồi lại không có được một giọt nước dệ uống. Trời ơi ! Thật là kinh khủng. Từ lúc bị bắn  là 1 giờ trưa cho đến 10 giờ sáng ngày hôm sau mới  tìm dược để bốc tôi ra ; gần 24 tiếng đồng hồ trong tình trạng như thế mà tôi vẫn còn sống. Rồi không bíêt trong suotá thời gian này tôi co ùlúc nào chợt tỉnh dậy vá không biết tôi đã nghĩ gì, lo gì với thân phận mình lúc đó.Trước khi là Tiền không Sát, tôi cũng đã tưng nhảy toán, đâ từng lặn lội, ngủ lê lêt trong rừng gia Trường Sơnø,  dã từng nếm mùi đêm trong rừng như thế nào rồi; đêm đen như mực, lạnh lùng, im vắng; nhưng lúc đó xung quanh tôi còn có bạn bè đồng ngũ, bên cạnh tôi conø có khẩu súng, còn dược sự tỉnh táo để phản ứng khi phát hiện ra địch. Hãi  hùng quá !!  Ðúng là tôi đã nhờ một đấng thiêng liêng nào đó  ra tay cứu tôi thì tôi mới có thể sống nổi. Hay theo quan niệm của người VN, các cụ nói là nhờ phước đức lớn của Ông Bà, Cha Mẹ để lại cho tôi.
          Trước đây khi nghĩ về vụ gãy cánh này, vì tôi không nhớ gì hết nên tôi không hinh dung ra được múc độ nguy hiểm cho tính mạng tôi đến như thế nào. nói đến là nói cho vui mà thôi, vã lại tôi cũng chẳng tường thuật diễn tiến dược vì có nhó gì đâu  mà kể  .Có khi với câu chuyện kể không rõ ràng, thiếu đầu thiếu đuôi tôi lại mang tiếng là xạo, hay nổ thì cũng oan cho tôi. Cũng có thể với va chạm nặng như vậy, trong đầu tôi có một sợi giây thần kinh nào đớ bị “ mát “ khiến tôi không nhớ những gì xảy ra trước đó, không nhớ tí gì về diễn tiến sự việc. Sau này, trong đời tôi lại xảy ra thêm hai vụ nữa cũng nguy ngập suýt chết như thế và tôi cũng không nhớ gì hết.
         
          Năm 1992, trước khi đi Mỹ, tôi và vợ tôi với cái thai 7 tháng, cùng con gái lúc đó đươc 8 tuổi, chở nhau trên chiếc Honda Dream làm mợt chuyến du hành ra Nha Trang. Sau 1 tuần du ngoạn Nha thành, trên đường trở về,chúng tôi ghé Phan Thiết ngủ đêm ở nhà bạn bè rồi sang hôm sau tiếp tục hành trình về Saigon. Tôi còn ghé Hàm Tân, nơi tôi đã bị tù cải tạo những năm sau cùng, để thăm một gia đình đã giúp đỡ tôi trong thời gian tù tội. Sau bữa  cơm trưa, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Theo lời vợ tôi kể thì tôi lái xe chạy tà tà vì trời còn sớm, con gái tôi ngồi phía trươc tôi cùng tôi ca hát nghêu ngao dọc đường. Về đến xã Xuân Minh, Xuân Lộc, xe đang chạy ngon trớn bỗng một thân cây to trồng ven dường từ tù ngã xuống.. Tôi la lên :” Dân tình gì ẩu quá, chặt cây mà không chận đường báo cho người ta biết”. Thế là cả chiêc xe lủi vô lùm cây và ....

           Ðêm đó tỉnh dậy trong Bệnh Xá của huyện Xuân Minh, tôi được biết tôi và con gái tôi được đưa vào đây bằng xe Jeep của Huyện đội.  Toiâ bị rách da trên trán, quãng 2 phân, con gái tôi bị toác da đầu từ trán chạy dài lên đỉnh dầu, dài quãng 8 phân. Cả hai bố con đều được may “ sống “, nghĩa là không có thuốc tê. Con gái tôi chỉ được chích cho một mũi thuốc ngủ mà thôi. Ðây là Bệnh Xá do Tổ chức Cựu Chiến Binh gì đó của Mỹ xây cất và trang bị, vậy mà không có dược một mũi thuốc tê để sử dụng trong trường hợp này. Vợ tôi kể lại rằng :” Sau khi tôi la lên như thế là chiếc xe đã chui vào tàng cây vừa ngã xuống; xe lết ra khỏi lùm cây thì ngã,  tôi và con gái tôi nằm bất tỉnh trên đường nhưa, còn vợ tôi thì rớt phịch xuống dường. Trước cảnh mình và chồng con như thế, đầu tiên vợ tôi để ý đến tình trạng cái thai trong bụng, thấy vẫn bình thường nên vơ tôi yên tâm xoay ra lo cho hai bố con. ( Vơ tôi là Nữ Hộ Sinh Quốc Gia ). có vài chiếc xe đò và xe đưa rước thân nhân thăm nuôi ờ Hàm Tân chạy qua nhưng họ vẫn bỏ chạy luôn khi được vợ tôi đón lại. Cuối cùng thì có người dân địa phương gọi được xe của Huyện Ðoiä đến đưa đi cáp cứu.
Bà chủ nhà và hai người con trai đã cùng với vợ tôi túc trưc suốt đêm trong Benh Viện để chăm sóc cho hai bố con.
          Thật tội cho Bà chủ nhà có cái cây trước cưa nhà mình. Theo lệnh của địa phương tất cả mọi nhà dọc theo QL 1 phải đốn cây mọc trước nhà mình để nhà nước nới rộng lòng đường. Có người xin bà chủ nhà để họ chặt cây về làm củi, thế là tai nạn xảy ra.
          Thế là gia đình tôi trải qua một đêm mất ăn mất ngủ trong Bệnh Viện,. Tôi thì còn đỡ hơn, tỉnh dậy sớm hơn trong khi con gái tôi còn mê man. Có một điều lạ là tình trạng chiếc xe không sao cả, chỉ bị bể cái mặt nạ. Bà chủ nhà đưa hai mẹ con về Saigon bằng xe đò, còn tôi lái xe tiếp, chở theo người con trai để tháp tùng tôi về Saigon và tìm mua đền cái mặt nạ xe Honda. Và toiâ cũng chả nhớ gì diễn tiến sự viêc đẵ xảy ra

                                                          @@@
                                               
-         Ê Trung, ông nói cho tôi biết là hồi năm tôi bị rơt máy bay, làm sao ông biết được mà vô QYV thăm tôi ?
-         Tôi vô phòng truyên tin,nghe thấy CÐ2XK (B.15) báo về BCH/SLL là 1 TKS là Tr/Úy Thọ bị rớt máy bay, chưa tìm ra. Rồi tôi gọi phone về CÐ2 để hỏi thêm tin tưc thì được biết là anh bị mất liên lạc. Có 1 chiếc L.19 chắc là của Nha Trang báo về Tiểu Khu Quảng Ðức là thấy 1 chiếc L.19 bị bắn cháy nhung không biết của PÐ nào. Sau đó liên lạc hoài không được thì mới nghĩ  là chiếc của anh.  Tôi hỏi đã báo cho bà xã anh ấy biết tin chưa thì họ nói khoan hãy báo vì chưa có tin tưc gì chính xác cả, Rồi ngày hôm sau thì báo là anh đã được bốc về và đưa về BMT nên tôi với Th/U Chiến và mấy anh em khác mới kéo vô thăm. Ra tới nơi thì thấy anh và thằng Bích năm gần nhau. Thằng Bích thì người đầy thuốc phỏng, còn anh thì bị chấn thương ở ngưc.
-         Rồi sao nữa ?
-         Tụi tôi hỏi bị như thế nào ? Anh thì nói là bị phòng không 37ly bắn rớt, còn Bích thì nói tại anh kêu xuống thấp quá nên bị SA7. Hai tay  cứ cãi nhau về lý do rớt làm tôi phải can.
-         Ồ ! Vậy là tôi còn tỉnh như vậy đó hả.?
-         Ừ ! Anh nói chuyện bình thường, chỉ có giọng nói là yếu vì anh bị đau ngực, Anh nói là bị cần lái đập vô ngưc. Còn thằng Bích thì nói rớt xuống thì không biết gì , nóng quá nên cởi quần áo rồi cứ thế mà chạy.
-         Ông còn nhó toán kể lại như thế nào không ? Tôi không nhó Toán trưởng là ai hết !
-         Hình như là Toán của TS Linh đen. Toán nói là thấy anh đang ngồi trong phi cơ và còn sống. Lời nói đầu tiển là anh đòi uống nước.

Trung là người toán trưởng lâu năm của CÐ và gần như là con cưng của đơn vị vì cũng đã lập đươc nhiều thành tích. Ngày tôi ra đơn vị,, chuyến đấu tiên “thử gió” là chuyến tôi đi với toán của Trung với tư cách là quan sát viên. Chuyến này có nhiệm vụ là đi quan sát, ghi nhận hoạt động của địch trên hệ thống đường mòn Trường Sơn. Sau vài ngày, chúng tôi lần ra tới đương và Trung đã chup ảnh mặt đường với những dấu vết xe chạy. Trung đã nhảy nhiều chuyến hơn tôi, nhiều như thế nào thì tôi không rõ. Sau này Trung đổi về BMT và giữ nhiệm vụ bay TKS như tôi. Cho  đến bây giờ, khi hai chúng tôi đều ở Mỹ, chúng tôi vẫn còn giữ liên lạc với nhau qua phone. Có lần tôi làm một  chuyến du hành Cali, tôi có ghé Modesto để thăm gia đình Trung, một mẹ già và vơ với hai con. Nhắc lại những câu chuyện xa xưa, bà cụ đều nhớ kỹ. Gần ba chục năm rồi mới gặp lại nhau, nhắc lại mà mắt rướm lệ.

Cuối truyện:
Tôi nhận được cuôn “ Lý lịch dọc ngang của Thảo “, tác giả là Võ Ý, cựu Trung Tá Phi Ðoàn trưởng PÐ118/SÐ6KQ gởi tặng. Trong truyện ngắn “Còn sống còn yêu “, từ trang 147 đễn 154, tác giả có đề cập đến BÐ.65 và vụ bị rớt máy bay năm 1973. Trong đó cá nhân tôi được mô tả là một “ Viên Sĩ Quan Phòng Nhì Ðoàn 65 Công Tác “ còn bất tỉnh trong ghế sau của phi cơ lâm nạn . Viên Sĩ Quan Lưc Lượng Dặc Biệt bị chấn thương cột sống, hiện còn hôn mê trong phòng hồi lực. Qua tiếp xúc với Y sĩ điều trị, chúng tôi rất ái ngại tình trạng chấn thương của viên Sĩ Quan này....”
          Thật ra thì không nhớ đến tên và dơn vị tôi cũng  đúng thôi. Trước đây, hàng ngày tôi đến phi doàn thì ra máy bay với pilot được cắt bay với tôi ngày hôm đó chứ dâu có la cà trong Phi Ðoàn. Thỉnh thoảng có gặp mấy sếp thì cũng đua tay chào là xong. Mấy ông làm sao nhớ được tên đơn vị dài lê thê . Hơn nưa PÐ118 tăng phái cho chúng tôi là Chiến Ðoàn 2 Xung Kích (B.15) ở Kontum và cũng làm luôn cho Ðoàn Công Tác 75 cũng thuộc Nha Kỹ Thuật nhưng đồn trú ở Pleiku, rồi cũng bay cho SQ Phòng 2 của Quân Ðoàn II nên dễ lẫn lộn. Rồi phải trải qua 13 năm tù tội thì làm sao sếp nhớ hết  được danh tánh.
Tiện đây tôi cũng xin đính chính về phần “ lý lịch “ của tôi cho danh chánh ngôn thuận :  
  Tr/Úy Nguyễn hữu Thọ
          Chiến Ðoàn 2 Xung Kich/SLL/NKT/TTM
                   Quân Lưc Việt Nam Cộng Hòa

          Chỉ còn kẹt một sợi tóc nũa là thành cố Ðại Úy, đâu có được ngồi đây, trên đất Mỹ, trong cái xứ mùa đông tuyết phủ, để ôn lại chuyện cũ như vầy.


                                                Indianapolis, ngày 5 tháng 9 năm 2003
                                                             Nguyễn hữu Thọ
                                                        thohuunguyen@juno.com
                                                          
          :TB : Nếu có liên lạc xin quí vị gọi ngoài giọ làm viêc ( sau 3 giờ chiều, ET ) hoặc hai ngày cuối tuần vì sang Mỹ này, ngoài chuyên môn đã được huấn luyện năm xưa là bóp cò tôi không có nghề chuyên môn nào khác nên bây giờ đang làm cu li cu leo cho có tiền trả bill hàng tháng, nuôi con ăn học cho tương lai rạng rỡ hơn bố là tôi vui rồi.
           Trên đất tạm dung này ngoài tình chiến hữu xưa kia cùng sống chết với nhau, hoặc tình bạn đồng tù, tôi cảm thấy khó tìm được tình bạn cho đúng nghĩa  Thật khó lắm thay !!!
          Móng được nối lại sợi giây tình cảm của những KQ thuộc 110, 118,  219, 235, 229 mà trước đây đã “ Biệt phái SF ‘” và đã một thời bay bổng với anh em tôi